VNReport»Top»10 doanh nghiệp niêm yết có lợi nhuận cao nhất năm 2021

10 doanh nghiệp niêm yết có lợi nhuận cao nhất năm 2021

15:19 - 08/02/2022

Các doanh nghiệp lớn nhất trên thị trường chứng khoán Việt Nam ghi nhận kết quả kinh doanh tăng trưởng mạnh bất chấp tình hình kinh tế khó khăn trong năm 2021.

Trong năm 2021, bất chấp nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, các doanh nghiệp lớn vẫn ghi nhận kết quả kinh doanh khả quan. Đặc biệt, nhóm ngân hàng – gồm nhiều doanh nghiệp lớn nhất niêm yết trên thị trường chứng khoán – chứng kiến lợi nhuận tăng mạnh ở mức 2 chữ số.

Sau đây là 10 doanh nghiệp niêm yết có lợi nhuận trước thuế cao nhất trong năm 2021, trong đó có đến 7 mã ngân hàng.

  1. Vinhomes (48,5 nghìn tỷ đồng)

Vinhomes là quán quân lợi nhuận trên thị trường chứng khoán trong năm vừa qua, với mức lãi trước thuế đạt 48,5 nghìn tỷ đồng, tăng 33% so với năm 2020. Lãi sau thuế đạt 39,2 nghìn tỷ đồng, tăng 39%. Riêng lãi sau thuế của cổ đông công ty mẹ là 39,0 nghìn tỷ đồng, tăng 42%. Tỷ suất lợi nhuận trên cổ phiếu (EPS) đạt 6.090 đồng.

Lợi nhuận kỷ lục của Vinhomes không giúp công ty mẹ Vingroup có lãi. Tập đoàn này ghi nhận lỗ trước thuế 6.369 tỷ đồng, lần đầu tiên kể từ khi công bố báo cáo tài chính.

  1. Hòa Phát (37,1 nghìn tỷ đồng)

Hòa Phát có một năm kinh doanh xuất sắc với doanh thu ghi nhận 150,8 nghìn tỷ đồng, tăng 65% so với năm 2020. Lợi nhuận trước thuế đạt 37,1 nghìn tỷ đồng, tăng 143% và lợi nhuận sau thuế đạt 34,5 nghìn tỷ đồng, tăng 156% so với năm trước.

Trong năm qua, Hòa Phát cung cấp cho thị trường tổng cộng 8,8 triệu tấn thép bao gồm phôi, thép xây dựng, thép cuộn cán nóng, ống thép và tôn mạ. Con số này tăng 35% so với năm 2020.

  1. Vietcombank (27,4 nghìn tỷ đồng)

Vietcombank tiếp tục giữ vững ngôi vị số 1 trong hệ thống ngân hàng xét về lợi nhuận. Ngân hàng này ghi nhận lãi trước thuế tăng 19% trong năm 2021 lên 27.400 tỷ đồng.

Trong năm 2021, thu nhập lãi thuần của Vietcombank tăng 17%, lãi thuần từ dịch vụ và hoạt động ngoại hối đều tăng trưởng ở mức vừa phải 12%. Chi phí hoạt động tăng 10%, trong khi chi phí dự phòng rủi ro tín dụng tăng 18%, cho thấy ngân hàng vẫn giữ quan điểm thận trọng về rủi ro tín dụng.

  1. Techcombank (23,2 nghìn tỷ đồng)

Sau Vietcombank, Techcombank trở thành ngân hàng thứ 2 của Việt Nam đạt lợi nhuận tỷ USD, sau khi báo cáo lãi trước thuế 23,2 nghìn tỷ đồng trong năm 2021. Con số này cao hơn 45% so với năm 2020.

Thu nhập từ hoạt động cho vay đạt hơn 26,7 nghìn tỷ đồng, tăng 42%, với biên lãi thuần (NIM) lên tới 5,6%. Thu nhập từ dịch vụ tăng 42% lên 7,8 nghìn tỷ đồng.

Một trong những yếu tố giúp Techcombank ghi nhận lợi nhuận cao nhất trong khối ngân hàng thương mại tư nhân là chi phí vốn. Theo đó, tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn (CASA) của Techcombank lên tới 50,5% – cao nhất trong toàn hệ thống.

  1. Vietinbank (17,6 nghìn tỷ đồng)

Vietinbank ghi nhận lợi nhuận trước thuế 17,6 nghìn tỷ đồng trong năm vừa qua. Tuy nhiên, con số này chỉ tăng 2,7% so với năm trước. Lý do là Vietinbank đẩy mạnh trích lập dự phòng rủi ro tín dụng trong bối cảnh chất lượng tài sản đi xuống. Chi phí dự phòng rủi ro tín dụng của ngân hàng tăng mạnh 50% lên 18,4 nghìn tỷ đồng.

Thu nhập lãi thuần của Vietinbank đạt 41,8 nghìn tỷ đồng trong năm 2021, tăng 17,5% so với năm trước. Trong khi đó, thu nhập từ hoạt động dịch vụ tăng 13,5% so với năm 2020 lên 4,95 nghìn tỷ đồng.

  1. MB (16,5 nghìn tỷ đồng)

MB ghi nhận lợi nhuận kỷ lục hơn 16,5 nghìn tỷ đồng, tăng 55% so với năm ngoái. Con số ấn tượng này giúp MB vượt VP Bank để trở thành ngân hàng thương mại tư nhân có lợi nhuận lớn thứ 2 (sau Techcombank).

Thu nhập lãi thuần và thu nhập từ dịch vụ lần lượt tăng 29% và 22% lên 26,2 nghìn tỷ đồng và 4,4 nghìn tỷ đồng. Lãi từ ngoại hối và mua bán chứng khoán kinh doanh đầu tư tăng trưởng tốt ở mức 70-75%. Đáng chú ý, tỷ lệ nợ xấu của MB tính đến cuối năm ngoái chỉ là 0,68%.

  1. VPBank (14,6 nghìn tỷ đồng)

VPBank ghi nhận lợi nhuận trước thuế hợp nhất tăng 12% so với năm 2020, đạt 14,6 nghìn tỷ đồng. Dù tăng trưởng, con số này chỉ đạt 88% kế hoạch năm của ngân hàng.

Tổng thu nhập hoạt động của VPBank đạt 44,3 nghìn tỷ đồng, tăng 13,5% so với năm trước trong khi chi phí hoạt động giảm khoảng 6%. Tỷ trọng CASA chiếm 23% tổng vốn huy động, cao hơn đáng kể so với những năm trước.

Đáng chú ý, VPBank có lợi nhuận trước thuế ngân hàng riêng lẻ cao nhất trong hệ thống, đạt gần 38 nghìn tỷ đồng, nhờ ghi nhận lợi nhuận 20,4 nghìn tỷ đồng từ thương vụ bán lại 49% cổ phần của FE Credit.

  1. BIDV (13,6 nghìn tỷ đồng)

BIDV báo lãi trước thuế hợp nhất tăng 50% so với năm 2020 lên 13,6 nghìn tỷ đồng. Như mọi năm, chênh lệch thu chi của BIDV dẫn đầu hệ thống, đạt gần 41,8 nghìn tỷ đồng, tăng 32% so với năm trước. Nhưng với tỷ lệ bao phủ nợ xấu đạt mức kỷ lục 235%, chi phí dự phòng rủi ro tín dụng trong năm vừa qua của BIDV tăng 26% lên hơn 29,4 nghìn tỷ đồng.

BIDV có quy mô tổng tài sản lớn nhất trong hệ thống ngân hàng, đạt hơn 1,7 triệu tỷ đồng tính đến cuối năm 2021, tăng 16% so với một năm trước. Dư nợ tín dụng của BIDV cũng cao nhất thị trường.

  1. Vinamilk (12,9 nghìn tỷ đồng)

Vinamilk là doanh nghiệp duy nhất trong danh sách này ghi nhận lợi nhuận suy giảm. Cụ thể, doanh nghiệp sữa lớn nhất Việt Nam chỉ ghi nhận mức lợi nhuận trước thuế 12,9 nghìn tỷ đồng trong năm qua, giảm 4% so với năm 2020. Trong 5 năm qua (2017-2021), lợi nhuận trước thuế của Vinamilk cũng chỉ đi ngang quanh mức 12-13 nghìn tỷ đồng.

Các chỉ số kinh doanh khác của Vinamilk cũng không có đột phá. Doanh thu chỉ tăng khoảng 2% lên 60,9 nghìn tỷ đồng. Lợi nhuận gộp và lợi nhuận sau thuế đều giảm 5%.

  1. ACB (12,0 nghìn tỷ đồng)

ACB đạt lợi nhuận trước thuế gần 12,0 nghìn tỷ đồng trong năm 2021, tăng 25% so với 2020. Thu nhập lãi thuần tăng gần 30% lên 18,9 nghìn tỷ đồng. Lãi từ dịch vụ tăng 71% lên 2,9 nghìn tỷ đồng. Nhưng chi phí trích lập dự phòng cũng tăng gấp 3,5 lần so với năm 2020, lên 3,3 nghìn tỷ đồng.

Lý do khiến chi phí trích lập dự phòng tăng là nợ xấu của ACB tăng mạnh 52% từ mức hơn 1,8 nghìn tỷ đồng vào cuối năm 2020 lên mức 2,8 nghìn tỷ đồng vào cuối năm 2021. Tỷ lệ nợ xấu theo đó cũng nhích lên từ mức 0,6% lên 0,78%.