VNReport»Sự kiện & Bình luận»Trong nước»8 hiệp hội doanh nghiệp đề xuất giảm tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội

8 hiệp hội doanh nghiệp đề xuất giảm tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội

10:54 - 10/05/2023

Cho rằng tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) ở Việt Nam cao hơn so với các nước trong khu vực, 8 hiệp hội doanh nghiệp đề xuất giảm tỷ lệ đóng vào quỹ hưu trí tử tuất.

Lương tính đóng BHXH có thể điều chỉnh tăng tiệm cận mức thu nhập thực tế hằng tháng

Tại dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi), Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội (LĐ-TB&XH) đã sửa đổi, bổ sung 5 nhóm chính sách, được chi tiết hóa thành 18 nội dung lớn với nhiều điểm mới quan trọng.

Luật BHXH hiện hành quy định, từ năm 2018, đối với người lao động đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định thì tiền lương tháng đóng BHXH là mức lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác theo quy định của pháp luật lao động.

Mặc dù trong các văn bản quy phạm pháp luật đã hướng dẫn chi tiết mức tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH nhưng ở một số doanh nghiệp vẫn tồn tại tình trạng tách thành nhiều khoản trợ cấp, bổ sung để không đóng bảo hiểm xã hội.

Phương án 2: Tiền lương làm căn cứ đóng BHXH là tiền lương tháng bao gồm mức lương và phụ cấp lương, các khoản bổ sung khác theo quy định của pháp luật lao động được cho là tạo sức ép lớn cho doanh nghiệp.

Theo đó mức tiền lương làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc vẫn còn khoảng cách nhất định so với tiền lương thực tế của người lao động.

Điều này cũng sẽ ảnh hưởng nhất định đến việc thụ hưởng các chế độ BHXH của người lao động, đặc biệt là mức hưởng lương hưu khi về già do mức hưởng được tính trên mức tiền lương làm căn cứ đóng BHXH của người lao động.

Do vậy, dự thảo Luật BHXH (sửa đổi) đã đưa ra xin ý kiến nội dung quy định tiền lương làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc đối với người lao động đóng BHXH theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định với 02 phương án:

Phương án 1: Tiền lương làm căn cứ đóng BHXH là tiền lương tháng bao gồm mức lương và phụ cấp lương, các khoản bổ sung khác xác định được mức tiền cụ thể cùng với mức lương thỏa thuận trong hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật lao động.

Phương án 2: Tiền lương làm căn cứ đóng BHXH là tiền lương tháng bao gồm mức lương và phụ cấp lương, các khoản bổ sung khác theo quy định của pháp luật lao động.

So với phương án 1, tiền lương làm căn cứ đóng BHXH tại phương án 2 sẽ bao gồm thêm cả các khoản phụ cấp lương, bổ sung khác gắn với quá trình làm việc và kết quả thực hiện công việc của người lao động.

Về tình hình thực hiện Luật BHXH năm 2014, Bộ LĐ-TB&XH cho biết, giai đoạn 2016-2021, số thu BHXH trên cả nước năm sau cao hơn năm trước, phụ thuộc rất lớn vào căn cứ tiền lương tính đóng BHXH. Kết quả này có được từ số người tham gia BHXH tăng, một phần cũng do tăng lương tối thiểu vùng hằng năm và tăng mức lương cơ sở.

Đặc biệt, khi Luật BHXH năm 2014 có hiệu lực, căn cứ tiền lương tính đóng BHXH không chỉ có lương còn có phụ cấp lương, các khoản bổ sung được xác định cụ thể, nên tiền đóng BHXH cũng tăng lên. Cụ thể, năm 2016 mới có hơn 13 triệu người tham gia BHXH, tới năm 2021 con số này tăng lên hơn 16,5 triệu người, tương ứng cùng thời gian số thu BHXH tăng từ hơn 14,8 nghìn tỷ đồng lên 30,9 nghìn tỷ đồng.

Thực tế, phản ánh từ các địa phương cho thấy, ở một số doanh nghiệp tồn tại 3 loại thu nhập của người lao động (3 sổ lương), gồm: Lương làm căn cứ đóng BHXH, lương để doanh nghiệp quyết toán thuế, và lương thực trả cho người lao động.

Trong 3 loại lương trên, lương làm căn cứ đóng BHXH luôn ở mức thấp nhất, cơ bản doanh nghiệp chỉ tính theo lương tối thiểu cộng thêm tỷ lệ trả cho lao động qua đào tạo (thêm 7%), và phụ cấp làm việc nặng nhọc độc hại (5-7%).

“Lương tính đóng BHXH thấp sẽ ảnh hưởng rất lớn đến mức hưởng các chế độ BHXH, đặc biệt là mức hưởng lương hưu khi về già”, Bộ LĐ-TB&XH nhận định.

Cụ thể, năm 2016, lương bình quân đóng BHXH khoảng 4,3 triệu đồng/tháng, tới năm 2021 tăng lên gần 5,7 triệu đồng/tháng. Trong khi lương bình quân người lao động được nhận năm 2016 hơn 5,7 triệu đồng/tháng, năm 2021 hơn 7,8 triệu đồng/tháng (khảo sát của Bộ LĐ-TB&XH). Từ đó, Bộ LĐ-TB&XH đề xuất sửa quy định về căn cứ tiền lương tính đóng BHXH, đảm bảo mức lương này bằng ít nhất 70% tổng thu nhập hằng tháng của người lao động.

8 hiệp hội doanh nghiệp đề xuất giảm tỷ lệ đóng BHXH

Trong văn bản góp ý dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội sửa đổi, 8 hiệp hội doanh nghiệp gồm Dệt may, Da giày – Túi xách, Gỗ và Lâm sản, Nhựa, Chế biến và Xuất khẩu thủy sản, Điện tử, Thực phẩm minh bạch và Mỹ nghệ – Chế biến gỗ TP HCM cho rằng tỷ lệ đóng BHXH của Việt Nam ở mức cao.

Cụ thể, luật hiện hành quy định tỷ lệ đóng 22% vào Quỹ Hưu trí tử tuất (lao động đóng 8%, chủ sử dụng 14%); 3% vào Quỹ Ốm đau và thai sản. Trong khi các nước cùng khu vực có tỷ lệ đóng thấp hơn, như Malaysia 13%; Philippines 10%, Indonesia 8%, Thái Lan 5% và Myanmar 2%.

Phân tích hai phương án tiền lương làm căn cứ tính đóng BHXH như dự thảo đề xuất, các hiệp hội cho rằng nếu giữ nguyên như hiện hành (tiền lương làm căn cứ đóng BHXH gồm mức lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác được xác định bằng mức tiền cụ thể ghi trong hợp đồng lao động) sẽ giảm bớt áp lực cho lao động lẫn doanh nghiệp nhưng lại tạo ra khoảng cách thu nhập lẫn căn cứ đóng, khiến lương hưu sau này rất chênh lệch.

Nhiều lao động chọn cách nhận BHXH 1 lần thay vì “đợi đến già hưởng lương hưu”. Ảnh: Internet

Ngược lại, chọn phương án hai (tiền được tính đóng bao gồm cả khoản xác định được trước khi ký hợp đồng lẫn biến động trong quá trình làm việc của lao động) thì tiền đóng sát với lương thực tế lao động được nhận, nhưng làm giảm thu nhập của họ và gây áp lực lớn lên doanh nghiệp.

Trên cơ sở này, 8 hiệp hội cùng đề xuất hai phương án điều chỉnh tiền lương tính đóng BHXH theo hướng giảm tỷ lệ nhưng nâng nền đóng sát với thu nhập thực tế lao động.

Phương án một, đưa tỷ lệ đóng về mức 20% như năm 2009, trong đó lao động 5% và giới chủ đóng 15%. Nền đóng không dựa trên đầu vào gồm mức lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác trong hợp đồng mà căn cứ vào đầu ra, tức trên 70% thu nhập thực tế của lao động. Cách này sát thực tiễn, đảm bảo người thu nhập cao đóng nhiều, thu nhập thấp đóng ít.

Phương án hai, tỷ lệ đóng giảm xuống còn 16%, trong đó lao động 4% và giới chủ 12%. Nền đóng căn cứ trên thu nhập thực tế, chiếm khoảng 90%, trừ một số khoản không có tính chất lương.

Theo các hiệp hội, chọn phương án nào cũng đều khắc phục được bất cập của tỷ lệ đóng và nền đóng theo luật hiện hành. Nguồn thu BHXH sẽ không giảm, thu nhập lẫn lương hưu của lao động không quá cách biệt và loại trừ được yếu tố thỏa thuận của đôi bên. Tỷ lệ hưởng lương hưu tối đa có thể quy định thấp hơn mức 75% nhưng tiền lương thực lĩnh của lao động cao hơn.

Phải tìm được phương án, giải pháp nhằm giải quyết bài toán chậm đóng, trốn đóng, nợ BHXH…

Góp ý cho dự thảo Luật BHXH sửa đổi, Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân cho rằng, trong trường hợp giữ nguyên quy định theo như phương án 1, doanh nghiệp và người lao động sẽ không phải chịu áp lực về chi phí “gia tăng đột biến”.

Tuy nhiên, cơ quan quản lý nhà nước phải tìm được phương án, giải pháp nhằm giải quyết bài toán chậm đóng, trốn đóng, nợ BHXH… của một số nhóm doanh nghiệp và người lao động như đã nhận diện thời gian qua.

Chuyên gia quốc tế về lao động cho rằng, trường hợp này ban soạn thảo nên cân nhắc để đề xuất gia tăng các hình thức thanh kiểm tra, quản trị dựa trên dữ liệu, liên kết giữa cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư với cơ sở dữ liệu thuế, BHXH; kết hợp chế tài nghiêm minh… thì hạn chế nêu trên sẽ dần được khắc phục mà vẫn tạo được thuận lợi cho doanh nghiệp và người lao động.

Nếu dự thảo luật áp dụng theo phương án 2, căn cứ tính đóng BHXH sẽ tăng lên. Ý kiến từ phía doanh nghiệp, Hiệp hội cho rằng sẽ có những vấn đề có thể xảy ra trong thực tế.

Theo Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân, việc điều chỉnh căn cứ tính đóng BHXH như phương án 2 sẽ làm gia tăng chi phí của cả người sử dụng lao động và người lao động mà chưa thực sự giải quyết được triệt để các nguyên nhân trực diện của tình trạng “chậm đóng, trốn đóng…” như chính cơ quan quản lý nhà nước đã đánh giá.

Trong bối cảnh doanh nghiệp và người lao động đều đang hết sức khó khăn, quy định này có thể dẫn đến tình trạng doanh nghiệp và người lao động càng tìm cách trốn đóng BHXH, khiến chính sách khó đạt được mục tiêu kỳ vọng và ảnh hưởng tiêu cực đến độ bao phủ của BHXH nói riêng và chính sách BHXH nói chung.

Chính vì vậy, đơn vị này khuyến khích Ban soạn thảo dự luật làm việc kĩ với các doanh nghiệp, hiệp hội, chuyên gia để đánh giá tính hợp lý, khả thi của các phương án đưa ra.

Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân cho rằng cần tập trung nhiều vào phân tích phương án đề xuất giữ nguyên quy định hiện hành về căn cứ tính đóng BHXH (phương án 1 của dự thảo luật), kết hợp với xác lập các biện pháp quản lý hiệu quả khác nhằm đảm bảo các mục tiêu toàn diện của chính sách BHXH cũng như chính sách phát triển kinh tế và doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, cơ quan này cũng đề nghị Ban soạn thảo dự luật nghiên cứu, thể hiện rõ ràng các quy định liên quan tới các khoản phụ cấp, khoản bổ sung phải tính đóng BHXH để tránh tình trạng khi dự luật đi vào đời sống, cơ quan quản lý nhà nước, người sử dụng lao động, người lao động có những cách hiểu khác nhau khiến việc chấp hành pháp luật về BHXH bị ảnh hưởng tiêu cực.