VNReport»Sự kiện & Bình luận»Quốc tế»Các nỗ lực thúc đẩy sinh đẻ trên toàn cầu đang thất bại

Các nỗ lực thúc đẩy sinh đẻ trên toàn cầu đang thất bại

13:52 - 16/10/2024

Từ cho vay ưu đãi, trợ cấp ô tô đến miễn thuế thu nhập, các quốc gia đã triển khai một loại những chính sách phúc lợi để khuyến khích các gia đình sinh nhiều con, nhưng không có hiệu quả.

Thử tưởng tượng nếu việc sinh con đi kèm với hơn 3,7 tỷ đồng tiền vay giá rẻ, một chiếc xe ô tô gia đình và được miễn thuế thu nhập trọn đời.

Liệu người ta có sinh thêm con không? Câu trả lời có vẻ là không.

Những ưu đãi trên – cùng với dịch vụ chăm sóc trẻ em giá rẻ, thêm ngày nghỉ và điều trị hiếm muộn miễn phí – đã được cấp cho các bậc cha mẹ ở nhiều nơi tại Châu Âu, một khu vực dẫn đầu tình trạng thiếu trẻ sơ sinh trên toàn thế giới. Theo thống kê của Liên hợp quốc, tổng dân số của Châu Âu đã giảm trong đại dịch và đang trên đà giảm khoảng 40 triệu người đến năm 2050.

Kể từ thập niên 1960, tỷ lệ sinh đã giảm trên khắp các nước phát triển. Nhưng sự suy giảm này ảnh hưởng đến Châu Âu mạnh hơn và nhanh hơn so với dự kiến ​​của các nhà nhân khẩu học.

Đảo ngược tình trạng giảm tỷ lệ sinh đã trở thành ưu tiên quốc gia của các chính phủ trên toàn thế giới, bao gồm Trung Quốc, Nga và Mỹ.

Châu Âu, và các nền kinh tế có thách thức về nhân khẩu học khác ở Châu Á như Hàn Quốc hay Singapore, đã cố gắng chống lại làn sóng giảm sinh bằng các chế độ phúc lợi hào phóng. Tuy nhiên, tỷ lệ sinh thấp vẫn tiếp diễn ở hầu hết mọi nhóm tuổi, thu nhập và trình độ học vấn. Những người có nhiều con nói rằng họ vẫn sinh con ngay cả khi không có các chế độ phúc lợi, trong khi những người không có con nói rằng chúng không đủ tạo khác biệt.

Hungary và Na Uy là hai nước châu Âu dành nhiều nguồn lực cho gia đình hơn hầu hết các quốc gia khác. Bất chấp các chương trình phúc lợi, tỷ lệ sinh của họ lần lượt là 1,5 và 1,4 con/phụ nữ, thấp hơn nhiều so với tỷ lệ thay thế là 2,1 – mức cần thiết để duy trì dân số ổn định.

Các nhà nhân khẩu học cho rằng việc giảm sinh là do thay đổi văn hóa cơ bản chứ không chỉ đơn thuần là vấn đề tài chính.

“Tôi từng tự nhủ rằng mình còn quá trẻ. Tôi phải hoàn thành bằng cử nhân. Tôi phải tìm một người bạn đời. Rồi đột nhiên tôi thức dậy và thấy mình đã 28 tuổi, đã kết hôn, có xe ô tô, nhà và công việc linh hoạt, không còn lý do gì nữa”, một phụ nữ Na Uy cho biết. “Mặc dù hiện tại không còn rào cản thực tế nào nữa, nhưng tôi nhận ra rằng mình không muốn có con”.

Mô hình Hungary

Cả Hungary và Na Uy đều chi hơn 3% GDP để thúc đẩy gia đình – nhiều hơn chi tiêu cho quân đội, theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế. Hungary cho biết trong những năm gần đây, chi tiêu của họ cho các chính sách gia đình đã vượt 5% GDP.

Các chương trình phúc lợi không đủ thay đổi quyết định không sinh con của Orsolya Kocsis ở Budapest. Ảnh: Wall Street Journal.

Các chương trình phúc lợi không đủ thay đổi quyết định không sinh con của Orsolya Kocsis. Ảnh: Wall Street Journal.

Chương trình cho vay nhà ở trợ cấp của Hungary đã giúp gần 250.000 gia đình mua hoặc cải tạo nhà, chính phủ cho biết. Orsolya Kocsis, 28 tuổi, làm việc trong lĩnh vực nhân sự, biết rằng việc có con sẽ giúp cô và chồng mua được một căn nhà lớn hơn ở Budapest, nhưng điều đó không đủ để thay đổi quyết định không muốn có con của cô.

“Nếu chúng tôi nói rằng chúng tôi sẽ có hai đứa con, về cơ bản chúng tôi có thể mua một căn nhà mới vào ngày mai”, cô nói. “Nhưng về mặt đạo đức, tôi không cảm thấy đúng khi mang một sinh linh đến thế giới này để mua nhà”.

Thúc đẩy sinh con là một mục tiêu chính trong chương trình chính sách của Thủ tướng Viktor Orbán. Ông Orbán mô tả việc sinh con trong gia đình truyền thống như một nghĩa vụ quốc gia, cũng như một giải pháp thay thế cho nhập cư để tăng dân số.

Dân số Hungary, hiện dưới 10 triệu người, đã giảm từ thập niên 1980.

“Vì dân số chúng tôi quá ít nên luôn có nỗi sợ rằng chúng tôi đang biến mất”, theo Zsuzsanna Szelényi, giám đốc chương trình tại Viện Dân chủ CEU và là tác giả của một cuốn sách về ông Orbán.

Tỷ lệ sinh của Hungary đã giảm mạnh sau khi Liên Xô sụp đổ và đến năm 2010 còn 1,25 con/phụ nữ. Năm đó, Orbán, người cha của 5 con, đã trở lại làm Thủ tướng sau khi mất ghế vào đầu thập niên 2000. Ông đã mở rộng hệ thống hỗ trợ gia đình trong thập kỷ tiếp theo.

Tỷ lệ sinh của Hungary tăng lên 1,6 trẻ em/phụ nữ vào năm 2021. Theo Ivett Szalma, phó giáo sư tại Đại học Corvinus Budapest, giống như nhiều quốc gia khác, các phụ nữ ở Hungary đã sinh con trở lại sau khi hoãn do khủng hoảng tài chính thế giới.

Tiến bộ đã dừng lại trong hai năm qua, khi tỷ lệ sinh của Hungary giảm. Khoảng 51.500 trẻ sơ sinh được ra đời tính đến tháng 8 năm nay, giảm 10% so với cùng kỳ năm ngoái. Nhiều phụ nữ Hungary cho biết hệ thống y tế công cộng và giáo dục thiếu kinh phí và khó khăn trong cân bằng giữa công việc và gia đình là một phần lý do khiến họ ngại sinh thêm con.

Anna Nagy, một cựu luật sư 35 tuổi, đã sinh con vào tháng 1/2021. Cô nhận khoản vay khoảng 680 triệu đồng mà cô không phải bắt đầu trả cho đến khi con cô tròn 3 tuổi. Nagy đã nghỉ việc trước khi mang thai nhưng vẫn nhận được các khoản trợ cấp thai sản từ chính phủ, bằng 70% mức lương cũ của cô, trong hai năm đầu tiên và một số tiền nhỏ hơn trong năm thứ ba.

Cô từng nghĩ mình muốn có 2-3 đứa con, nhưng giờ chỉ muốn một đứa. Cô thất vọng vì ý kiến cho rằng vấn đề nhân khẩu học là trách nhiệm của cô. “Là phụ nữ Hungary, chúng tôi không có nhiệm vụ phải duy trì đất nước”, cô nói.

Gia đình lớn

Hungary đặc biệt hào phóng với những gia đình có nhiều con hoặc sinh con khi còn trẻ. Năm ngoái, chính phủ tuyên bố sẽ hạn chế chương trình cho vay mà Nagy đã sử dụng cho những phụ nữ dưới 30 tuổi. Những gia đình cam kết sinh 3 con trở lên có thể nhận được hơn 3,7 tỷ đồng tiền được trợ cấp. Các lợi ích khác bao gồm miễn thuế cá nhân trọn đời cho những bà mẹ có 4 con trở lên và thêm tới 7 ngày nghỉ phép hàng năm cho cả cha và mẹ.

Theo một chương trình khác hiện đã hết hạn, gần 30.000 gia đình đã sử dụng tiền trợ cấp để mua xe ô tô gia đình, chính phủ cho biết.

Những người chỉ trích chính sách gia đình của Hungary cho rằng số tiền này bị lãng phí cho những người nhất quyết muốn có gia đình đông con, và chính sách loại trừ các nhóm như người nghèo và người thiểu số Roma.

Eszter Gerencsér và chồng luôn muốn có một gia đình lớn. Ảnh: Wall Street Journal.

Eszter Gerencsér và chồng luôn muốn có một gia đình lớn. Ảnh: Wall Street Journal.

Các chương trình của chính phủ không phải là yếu tố quyết định đối với Eszter Gerencsér, 37 tuổi, cho biết cô và chồng luôn muốn có một gia đình lớn. Họ có 4 con, từ 3 đến 10 tuổi.

Họ đã nhận được khoảng 1,6 tỷ đồng tiền vay lãi suất thấp thông qua các chương trình của chính phủ và 870 triệu đồng tiền trợ cấp. Họ sử dụng số tiền này để mua và cải tạo một căn nhà ở ngoại ô Budapest. Sau khi cô sinh đứa con thứ tư, chính phủ đã xóa 270 triệu đồng tiền nợ. Gia đình cô nhận được khoảng 1 triệu đồng hàng tháng cho mỗi đứa trẻ.

Hầu hết phụ nữ Hungary ở nhà với con cho đến 2 tuổi, sau đó các khoản trợ cấp thai sản sẽ giảm. Các nhà trẻ công miễn phí cho những gia đình đông người như gia đình cô. Gerencsér làm việc không liên tục giữa các lần mang thai và đã quay lại làm việc toàn thời gian trong một công việc viên chức vào đầu năm nay.

Cô vẫn nghĩ rằng xã hội Hungary không thuận lợi với các bà mẹ và cho biết cô gặp khó khăn khi tìm việc làm vì các nhà tuyển dụng lo rằng cô sẽ phải nghỉ nhiều thời gian.

Mô hình Na Uy

Na Uy đã khuyến khích sinh con trong nhiều thập kỷ với chế độ nghỉ phép chăm con hào phóng và trợ cấp chăm sóc trẻ em. Các cha mẹ mới ở Na Uy có thể chia nhau gần một năm nghỉ phép được trả lương đầy đủ, hoặc khoảng 14 tháng với lương 80%. Hơn 3 tháng được dành riêng cho các ông bố. Các bà mẹ có quyền dành ít nhất một giờ làm việc để cho con bú hoặc hút sữa.

Gina Ekholt (trái) không cho rằng quyết định sinh thêm con là vấn đề kinh tế. Ảnh: Wall Street Journal.

Gina Ekholt (trái) không cho rằng quyết định sinh thêm con là vấn đề kinh tế. Ảnh: Wall Street Journal.

Chính phủ chưa từng nói thẳng mục tiêu của họ là khuyến khích người dân sinh nhiều con hơn, mà thay vào đó là giúp phụ nữ cân bằng giữa sự nghiệp và con cái, theo Trude Lappegard, một giáo sư nghiên cứu nhân khẩu học tại Đại học Oslo.

Tỷ lệ sinh của nước này là 1,4 con/phụ nữ, giảm đều từ mức gần 2 vào năm 2009. Không giống như Hungary, dân số Na Uy hiện vẫn đang tăng, nhưng chủ yếu là do nhập cư.

“Thật khó để nói tại sao người dân lại sinh ít con hơn”, theo Kjersti Toppe, Bộ trưởng Bộ Trẻ em và Gia đình Na Uy.

Nhiều phụ nữ ở Na Uy không có con hoặc chỉ có một con. Tỷ lệ phụ nữ 45 tuổi có 3 con trở lên giảm xuống còn 27,5% vào năm ngoái từ 33% vào năm 2010. Phụ nữ cũng chờ lâu hơn để bắt đầu có con: độ tuổi trung bình mà phụ nữ sinh con đầu lòng là 30,3 vào năm ngoái.

Các nhà nghiên cứu cho biết sự gia tăng đột biến chi phí nhà ở trên toàn cầu và thời gian dài hơn để ổn định sự nghiệp có thể là một nguyên nhân. Những bà mẹ lần đầu lớn tuổi có thể gặp vấn đề: Phụ nữ từ 35 tuổi trở lên có nguy cơ vô sinh và biến chứng thai kỳ cao hơn.

Gina Ekholt, 39 tuổi, cho biết các chính sách của chính phủ đã giúp bù đắp phần lớn chi phí sinh con và cho phép cô duy trì công việc cố vấn tại một tổ chức phi lợi nhuận. Cô sinh con gái ở tuổi 34 sau một đợt thụ tinh trong ống nghiệm được nhà nước trợ cấp với chi phí khoảng 40 triệu đồng. Cô muốn sinh thêm con nhưng không thể vì vấn đề y tế.

Cô nhận được trợ cấp hàng tháng khoảng 4 triệu đồng, bằng gần toàn bộ tiền nhà trẻ hàng tháng là 4,7 triệu đồng.

“Về mặt kinh tế, [việc có con] không tốn kém hơn nhiều. Điều khó khăn đối với tôi là cố gắng sinh thêm một đứa con nữa,” cô nói. “Quan niệm rằng nên sinh thêm con, và ích kỷ nếu chỉ sinh một đứa… đó là những điều đã gây áp lực lên tôi”.

Người bạn của cô, Ewa Sapieżyńska, một nhà văn và nhà khoa học xã hội người Ba Lan-Na Uy 44 tuổi có một con trai, đã giúp cô thấy được mặt tích cực của lối sống một con. “Đối với tôi, quyết định không phải là chuyện tiền bạc. Đó là chuyện cuộc sống của tôi”, cô nói.

Theo: https://www.wsj.com/world/birthrate-children-fertility-europe-perks-family-04aa13a0?mod=hp_lead_pos7