VNReport»Kinh tế»Bất động sản»“Cần duy trì lợi thế giá rẻ của bất động sản khu công nghiệp”

“Cần duy trì lợi thế giá rẻ của bất động sản khu công nghiệp”

11:40 - 28/05/2021

Theo Colliers Việt Nam, giá cho thuê bất động sản khu công nghiệp tại TP.HCM và Hà Nội không ngừng tăng, ảnh hưởng đến lợi thế chi phí thấp của các khu công nghiệp Việt Nam.

Một báo cáo thị trường gần đây của nhà môi giới bất động sản Colliers Việt Nam ghi nhận giá chào bán đất khu công nghiệp trung bình tại TP.HCM trong 3 tháng đầu năm 2021 vào khoảng 165 USD/m2/kỳ hạn thuê, trong khi con số này ở Hà Nội là 140 USD/m2/kỳ hạn thuê.

Đáng chú ý, số lượng khu công nghiệp tại TP.HCM và Hà Nội hầu như giữ nguyên khiến giá thuê bất động sản công nghiệp không ngừng tăng. Điều này đặc biệt sẽ ảnh hưởng đến các ngành có tỷ suất lợi nhuận tương đối thấp, chẳng hạn như dệt may và đồ nội thất.

Giá thuê bất động sản công nghiệp rẻ là một lợi thế của Việt Nam trong thu hút FDI.

Giá thuê bất động sản công nghiệp rẻ là một lợi thế của Việt Nam trong thu hút FDI.

Ông David Jackson, Giám đốc điều hành Colliers Vietnam, đánh giá, nếu không kiểm soát được đà tăng trưởng thì việc thu hút đầu tư nước ngoài ít nhiều sẽ gặp khó khăn. Ngay từ bây giờ, cần nghĩ đến những giải pháp lâu dài để duy trì và phát huy lợi thế của bất động sản công nghiệp Việt Nam.

Sự phát triển của các khu công nghiệp mới tại các tỉnh lân cận TP.HCM và Hà Nội sẽ góp phần giảm nhiệt giá thuê. Hiện tại, tại miền Bắc, nhiều nhà đầu tư đã tăng cường tìm kiếm đất công nghiệp tại các tỉnh như Hưng Yên, Hải Dương hay Bắc Ninh, nơi có giá thuê đất thấp hơn và quỹ đất dồi dào hơn.

Một số tỉnh phía Nam cũng có kế hoạch mở rộng các khu công nghiệp để thu hút vốn đầu tư nước ngoài.

Đơn cử, tỉnh Long An đã được phê duyệt bổ sung 3 khu công nghiệp mới vào quy hoạch quốc gia là Khu công nghiệp Sài Gòn – Mê Kông với diện tích 200 ha, Khu công nghiệp Tân Tập với diện tích 654 ha và Khu công nghiệp Lộc Giang với diện tích 466 ha. Sáu địa phương của tỉnh Đồng Nai bao gồm huyện Long Thành, Cẩm Mỹ, Thống Nhất, Trảng Bom, Nhơn Trạch, TP. Long Khánh đã quy hoạch xây dựng thêm các khu công nghiệp, quy mô mỗi khu từ 200 ha đến 900 ha để giải quyết tình trạng thiếu diện tích.

Về mô hình phát triển, CEO Colliers Việt Nam coi khu công nghiệp sinh thái là mô hình phù hợp và cần phát huy. Trong đó, các doanh nghiệp cam kết, hợp tác và hành động để đạt được các mục tiêu chung về sử dụng tài nguyên và môi trường.

Tài liệu “Sổ tay phát triển khu công nghiệp sinh thái cho các nước đang phát triển châu Á” của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) nêu rõ, các khu công nghiệp sinh thái có thể được phân thành 5 nhóm, gồm: khu công nghiệp sinh thái nông nghiệp, khu công nghiệp sinh thái lọc hóa dầu, khu công nghiệp sinh thái tái tạo tài nguyên, khu công nghiệp sinh thái nhà máy điện và khu công nghiệp sinh thái về năng lượng tái tạo.

Mô hình này sẽ đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển bền vững nói chung, giúp giảm thiểu việc khai thác tài nguyên, hạn chế tác động đến môi trường mà không ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp. Ngoài ra, môi trường này cũng sẽ đóng góp tích cực vào nỗ lực chống biến đổi khí hậu của Việt Nam và trên toàn cầu.

Các bước cụ thể có thể thực hiện là nâng cao năng lực chuyển giao công nghệ của doanh nghiệp, ứng dụng công nghệ tiên tiến, giảm phát thải, thí điểm chuyển đổi một số khu công nghiệp sang mô hình khu công nghiệp sinh thái để rút ra cách hiệu quả nhất để làm điều đó.

Ông Jackson cũng cho rằng, các địa phương cần có cơ chế cập nhật thường xuyên tình hình phát triển khu công nghiệp, các chính sách phát triển khu công nghiệp, chính sách phát triển, cách làm hay để cùng phát triển, tạo thành một hệ thống đồng bộ.

Ông David Jackson, CEO Colliers Việt Nam

Ông David Jackson, CEO Colliers Việt Nam

Cơ chế này cũng sẽ giúp các địa phương giải quyết các vấn đề phát sinh hiệu quả hơn, tận dụng lợi thế của từng tỉnh thành, tạo sự hài hòa trong quá trình phát triển liên vùng, đóng góp tích cực vào chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

Sự liên kết giữa các khu công nghiệp cũng rất quan trọng để phát triển chuỗi logistics và sản xuất hàng hóa. Qua đó, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao tính bền vững của toàn ngành.