VNReport»Kinh tế»Kinh tế Việt Nam tăng tốc, ngược chiều xu hướng ở châu Á

Kinh tế Việt Nam tăng tốc, ngược chiều xu hướng ở châu Á

12:03 - 07/09/2022

Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đánh giá kinh tế Việt Nam có triển vọng tăng trưởng lạc quan, đi ngược với xu hướng chậm lại của khu vực. Mặc dù vậy, nền kinh tế vẫn đối mặt với một số rủi ro trong ngắn hạn và thách thức trong dài hạn.

Triển vọng tăng trưởng lạc quan của Việt Nam đang ngược với xu hướng chậm lại tại những nơi khác ở châu Á, theo một báo cáo mới của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). Lạm phát ở Việt Nam cũng tương đối thấp hơn so với tình hình chung của khu vực.

Đi ngược với xu hướng khu vực

Theo các tác giả Era Dabla-Norris, Federico J. Díez và Giacomo Magistretti, nửa đầu năm nay chứng kiến sự phục hồi nhanh chóng của kinh tế Việt Nam khi các hạn chế liên quan đến đại dịch được nới lỏng. Những chính sách hỗ trợ như giảm lãi suất, tăng trưởng tín dụng mạnh và gói phục hồi và phát triển kinh tế xã hội của chính phủ đi kèm với sản lượng sản xuất cao và sự phục hồi mạnh mẽ trong hoạt động bán lẻ và du lịch.

Việt Nam là nền kinh tế lớn duy nhất ở châu Á được IMF nâng đáng kể dự báo tăng trưởng năm 2022.

Việt Nam là nền kinh tế lớn duy nhất ở châu Á được IMF nâng đáng kể dự báo tăng trưởng năm 2022.

Gần đây, IMF nâng dự báo tăng trưởng của Việt Nam lên 7% trong năm nay, hơn 1 điểm phần trăm so với dự báo 3 tháng trước đó và là điều chỉnh tăng đáng kể duy nhất trong số các nền kinh tế lớn ở Châu Á. IMF hạ dự báo cho năm 2023 ở mức 0,5 điểm phần trăm xuống còn 6,7%, nhưng vẫn ngược với triển vọng mờ nhạt ở những nơi khác và dự báo cao nhất trong số các nền kinh tế lớn của châu Á. Dự báo tăng trưởng cho châu Á giảm xuống lần lượt 4,2% và 4,6% cho năm 2022 và 2023 trong Bản cập nhật Triển vọng Kinh tế Thế giới mới nhất của IMF.

Áp lực lạm phát của Việt Nam chủ yếu được giới hạn ở một số hàng hóa như nhiên liệu và các dịch vụ liên quan như vận tải. Người tiêu dùng không phải chịu hầu hết áp lực từ sự gia tăng giá thực phẩm trên toàn cầu vì nguồn cung trong nước dồi dào, giá thịt lợn giảm so với mức đỉnh của năm ngoái và loại lương thực phổ biến là gạo ít tăng hơn so với những mặt hàng ngũ cốc khác như lúa mì. Hơn nữa, mức tăng giá đối với các dịch vụ, chẳng hạn như y tế và giáo dục, cũng rất nhẹ.

Giá tiêu dùng trong 7 tháng đầu năm tăng, nhưng vẫn thấp hơn mục tiêu 4% của Ngân hàng Nhà nước. Sự phục hồi bị trì hoãn của nền kinh tế năm ngoái giữ cho lạm phát cơ bản – không bao gồm chi phí thực phẩm và năng lượng ­­– thấp hơn các nước láng giềng trong khu vực.

Rủi ro trước mắt

Tuy nhiên, lạm phát có thể tăng tốc khi hoạt động kinh tế trở lại ở mức tối đa. Chi phí vận tải cao hơn và các mặt hàng như phân bón và thức ăn chăn nuôi cũng có thể làm tăng giá nhiều loại hàng hóa và dịch vụ hơn, gây thêm áp lực lạm phát.

Áp lực lạm phát từ đầu năm chủ yếu đến từ giá xăng dầu và chi phí vận tải.

Áp lực lạm phát từ đầu năm chủ yếu đến từ giá xăng dầu và chi phí vận tải.

Sự phục hồi của Việt Nam cũng gặp phải những trở ngại do tăng trưởng toàn cầu giảm tốc từ mức 6,1% năm ngoái. Báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới của IMF hạ dự báo xuống 3,2% trong năm nay và 2,9% năm sau trong bối cảnh tác động của việc Nga xâm lược Ukraine, cũng như sự chậm lại ở Trung Quốc và các nền kinh tế tiên tiến lớn. Điều đó có nghĩa là nhu cầu đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam giảm, đặc biệt là từ những đối tác thương mại chính như Mỹ, Trung Quốc và Liên minh Châu Âu.

Ngoài ra, các điều kiện tài chính đang bị thắt chặt khi lãi suất ở Mỹ và những nền kinh tế tiên tiến khác tăng lên để kiềm chế lạm phát. Điều đó sẽ làm tăng chi phí tài chính ở các thị trường mới nổi và có thể dẫn đến dòng vốn chảy ra ngoài.

Cuối cùng, sự bất ổn về thương mại toàn cầu và thị trường tài chính có thể gây áp lực lên đà phục hồi, đặc biệt nếu một số ngành mất khả năng tiếp cận hàng hóa trung gian cần thiết do chuỗi cung ứng bị gián đoạn thêm. Điều đó có thể làm hạn chế đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, làm chậm tốc độ tăng trưởng sản xuất và công nghệ.

Theo IMF, Những thử thách này đỏi hỏi nhà hoạch định chính sách phải linh hoạt và có thay đổi kịp thời. Chính sách tài khóa cần đi đầu trong việc hỗ trợ phục hồi, nhưng được điều chỉnh linh hoạt để phù hợp với diễn biến của các điều kiện kinh tế. Ngân hàng Nhà nước nên tập trung vào rủi ro lạm phát tăng, thông báo rằng họ sẵn sàng hành động khi cần thiết và quyết tâm đạt được mục tiêu lạm phát. Ngoài ra, các cơ quan chức năng cũng cần tiếp tục xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng và giám sát chặt chẽ những rủi ro tiềm ẩn trên thị trường bất động sản để đảm bảo ổn định tài chính.

Thách thức trong dài hạn

Ngay cả sau nhiều thập kỷ đạt được những thành tựu ấn tượng, Việt Nam vẫn phải đối mặt với một số thách thức và cần phải có những cải cách kinh tế sâu rộng để đạt được các mục tiêu phát triển.

Chênh lệch hiệu suất giữa các doanh nghiệp FDI và các doanh nghiệp trong nước là rất lớn.

Chênh lệch hiệu suất giữa các doanh nghiệp FDI và các doanh nghiệp trong nước là rất lớn.

Ví dụ, tiềm năng tăng trưởng bị giảm bớt do chênh lệch hiệu suất giữa các công ty có năng suất cao hưởng lợi từ đầu tư trực tiếp nước ngoài và những công ty khác năng suất kém hơn. Doanh nghiệp – đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ – bị cản trở bởi quy định nặng nề, thủ tục hành chính rườm rà, quản trị doanh nghiệp yếu kém, cơ sở hạ tầng không đủ và khoảng cách về kết nối kỹ thuật số.

Thị trường lao động sẽ được hưởng lợi nếu người lao động có kỹ năng công việc phù hợp hơn. Nên khuyến khích thị trường việc làm chính thức bằng cách cải thiện kỹ năng và giảm chi phí cho các công ty thuê lao động chính thức.

Ngoài ra, độ bao phủ của mạng lưới an sinh xã hội cần được mở rộng và thực hiện hiệu quả hơn. Những rủi ro liên quan đến khí hậu có thể được giải quyết thông qua chính sách cụ thể, đầu tư vào thích ứng với khí hậu, giảm lượng khí thải carbon để đạt được mục tiêu môi trường đầy tham vọng.