VNReport»Kinh tế»Tiêu dùng»Ngành cao su Việt Nam cần minh bạch thông tin chuỗi cung ứng

Ngành cao su Việt Nam cần minh bạch thông tin chuỗi cung ứng

14:01 - 11/10/2021

Các nhà nhập khẩu cao su từ Việt Nam cho biết họ sẵn sàng trả thêm tiền cho sự minh bạch và bền vững về môi trường.

Sự thiếu minh bạch có nguy cơ làm suy yếu ngành cao su Việt Nam khi người mua trên toàn cầu ngày càng yêu cầu nguyên liệu đáp ứng các tiêu chuẩn nghiêm ngặt về đạo đức và pháp luật, theo các chuyên gia trong ngành.

Việt Nam đứng thứ 5 trên thế giới về đất trồng cao su (khoảng 926.000 ha vào năm 2020) nhưng đứng thứ 3 trên toàn cầu về sản lượng (sản xuất khoảng 1,22 triệu tấn vào năm 2020), theo một báo cáo năm ngoái của Forest Trends.

Xuất khẩu nguyên liệu cao su tự nhiên, chẳng hạn như khối cao su và mủ cô đặc; và các sản phẩm cao su, chẳng hạn như lốp xe, vật tư y tế và đế giày, đã tăng vọt từ 2,9 tỷ USD năm 2015 lên gần 5,5 tỷ USD năm 2020, theo cùng báo cáo.

Việt Nam đứng thứ 3 thế giới về sản lượng cao su.

Việt Nam đứng thứ 3 thế giới về sản lượng cao su.

Tuy nhiên, các công ty lớn như Nike và Adidas ngày càng ưu tiên tìm nguồn cung ứng cao su từ những nhà sản xuất được chứng nhận bởi Hội đồng Quản lý Rừng (FSC), tiêu chuẩn vàng của ngành về pháp lý và môi trường.

Nhưng Việt Nam không có nhà cung cấp nào có chứng nhận của FSC.

Tô Xuân Phúc, chuyên gia phân tích chính sách cấp cao của Forest Trends, cho biết phần lớn ngành cao su của Việt Nam khó có khả năng đạt chứng nhận FSC vì chuỗi cung ứng “lộn xộn”, liên quan đến khoảng 265.000 nông dân nhỏ lẻ và hàng trăm công ty.

Hơn nữa, cao sư chưa chế biến nhập khẩu từ Campuchia và Lào được trộn lẫn với cao su sản xuất trong nước. Việc quản lý các đồn điền cao su ở 2 nước láng giềng này đang đối mặt với những câu hỏi lớn, liên quan đến tranh chấp đất đai và khai thác gỗ.

“Chuỗi cung ứng dài và trong nhiều trường hợp không thể truy tìm sản phẩm dọc theo chuỗi”, ông Phúc nói.

Phần lớn cao su nhập khẩu đến từ các công ty Việt Nam khai thác đồn điền ở Campuchia và Lào. Năm 2015, Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam đã bị thu hồi chứng nhận FSC cho các hoạt động ở Campuchia vì đuổi dân làng khỏi đất của họ.

Số liệu thống kê cũng có vấn đề. Theo cơ quan hải quan Việt Nam, trong nửa đầu năm 2021, gần 392.000 tấn cao su chưa chế biến được nhập khẩu từ Campuchia. Con số này cao gấp 1,5 lần tổng kim ngạch nhập khẩu vào năm 2020 và gần 50 lần so với năm 2019. Tuy nhiên, số liệu hải quan Campuchia cho thấy tổng kim ngạch xuất khẩu cao su của nước này chỉ đạt 102.800 tấn trong nửa đầu năm nay.

Jean-Christophe Diepart, một nhà nghiên cứu nông nghiệp tại Campuchia, cho biết hầu hết cao su sản xuất ở nước này được gửi đến Việt Nam dưới dạng chưa qua chế biến thông qua các kênh không chính thức. Ông cho biết, kim ngạch giao dịch này đã tăng sau khi giá cao su giảm vào năm 2012 do nó được tiến hành thông qua người trung gian, đưa ra mức giá cao hơn một chút cho nguyên liệu thô.

“Không phải 100% mủ cao su [xuất khẩu]. Vẫn có một số kênh chế biến mủ địa phương ở Campuchia xuất khẩu qua đường chính ngạch sang Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam và Malaysia”, Diepart nói. “Nhưng phần lớn cao su được xuất khẩu sang Việt Nam theo cách này”.

Đối với Campuchia, hoạt động thương mại phi chính thức này khiến các nhà chế biến trong nước thiếu mủ và do đó không thể hoạt động hết công suất. “Có một sự lãng phí lớn về giá trị”, Diepart nói.

Trong khi đó, các thương hiệu và khách hàng toàn cầu đang kêu gọi Việt Nam và các nước khác tăng cường tính minh bạch trong chuỗi cung ứng cao su của mình, nói rằng họ sẵn sàng trả thêm tiền.

Công ty cao su Mỹ Yulex đang cung cấp cao su cho một số thương hiệu may mặc sản xuất tại Việt Nam. Nhưng công ty này sử dụng cao su nhập khẩu từ các đồn điền được FSC phê duyệt ở Sri Lanka hoặc Guatemala. Người sáng lập kiêm CEO Yulex, Jeff Martin, cho biết công ty rất mong muốn được làm việc với các nhà sản xuất tại Việt Nam có thể được cấp chứng chỉ FSC.

Stefano Savi, Giám đốc Nền tảng Toàn cầu về Cao su Tự nhiên Bền vững, với các thành viên chiếm 50% khối lượng cao su tự nhiên toàn cầu, cho biết nhóm muốn thấy các bên mua tổng hợp nguồn lực của họ để giúp những nhà sản xuất đạt được tiêu chuẩn cao hơn. “Chúng ta cần đưa ra những biện pháp khuyến khích phù hợp”, ông nói

Trong một dấu hiệu thay đổi khác, Tập đoàn Cao su Sumitomo khổng lồ của Nhật Bản vào tháng 8 đã ban hành Chính sách Cao su Thiên nhiên Bền vững cập nhật; bao gồm cam kết bắt đầu kiểm tra của bên thứ 3 đối với nhà cung cấp trong các lĩnh vực như môi trường, lao động và nhân quyền.

Tuy nhiên, những nỗ lực để làm sạch chuỗi cung ứng của Việt Nam đang vấp phải sự cản trở, theo ông Phúc.

Một phần nguyên nhân đến từ các công ty nhà nước thống trị lĩnh vực này nhờ kiểm soát lượng đất đai rộng lớn, ông nói. Các nhà sản xuất cũng cảm thấy ít cấp bách vì hơn một nửa cao su của Việt Nam xuất sang Trung Quốc, nơi không có rào cản lớn về việc tuân thủ các tiêu chuẩn.

“[Các công ty nhà nước] tin rằng họ vẫn có thể bám vào thị trường Trung Quốc. Họ đúng. Nhưng điều này có thể thay đổi trong tương lai. Ngoài ra, việc bỏ tất cả trứng vào một giỏ là rất rủi ro”, ông Phúc nói. “Nếu những công ty này không bắt đầu thay đổi, có thể họ sẽ không tồn tại trong tương lai”.