VNReport»Top»5 dấu hiệu kinh tế thế giới sắp suy thoái

5 dấu hiệu kinh tế thế giới sắp suy thoái

13:53 - 06/10/2022

Đồng USD mạnh, sự giảm sút trong hoạt động tiêu dùng và doanh nghiệp của Mỹ, thị trường chứng khoán lao dốc, sự kết hợp giữa chiến tranh, lạm phát và xung đột chính sách là những dấu hiệu cho thấy nền kinh tế thế giới sẽ rơi vào suy thoái.

Trên khắp thế giới, các thị trường đang phát ra những dấu hiệu cảnh báo rằng nền kinh tế toàn cầu ở trên bờ vực suy thoái. Theo CNN Business, câu hỏi không còn là liệu có suy thoái hay không mà là khi nào.

Từ cuối tháng 9, thị trường bắt đầu đối diện với sự thật rằng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) chắc chắn sẽ tiếp tục chiến dịch thắt chặt tiền tệ mạnh tay nhất trong nhiều thập kỷ để chấm dứt lạm phát cao kéo dài. Ngay cả khi điều đó kích hoạt một cuộc suy thoái, và ngay cả khi hậu quả lan ra đến người tiêu dùng và doanh nghiệp ngoài biên giới nước Mỹ.

Theo công ty nghiên cứu Ned Davis, hiện có 98% khả năng xảy ra một cuộc suy thoái toàn cầu. Chỉ có 2 lần trước đây xác suất của họ cao đến mức này – vào năm 2008 và 2020.

Sau đây là 5 dấu hiệu cho thấy nền kinh tế thế giới sẽ rơi vào suy thoái.

  1. USD mạnh

Đồng USD đóng vai trò ngoại cỡ trong nền kinh tế toàn cầu và tài chính quốc tế. Nó đang có giá trị cao nhất trong 2 thập kỷ. Lời giải thích cho điều này đến từ Fed.

Khi ngân hàng trung ương của Mỹ tăng lãi suất, như đã làm kể từ tháng 3, điều đó khiến cho đồng USD trở nên hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư trên toàn thế giới. Trong mọi môi trường kinh tế, đồng USD đều được coi là một nơi an toàn để giữ tiền. Trong môi trường hỗn loạn như hiện nay, nhà đầu tư thậm chí còn có thêm động lực để mua USD, thường dưới dạng trái phiếu chính phủ Mỹ.

Trong khi đồng USD mạnh là điều có lợi cho người Mỹ đi du lịch nước ngoài, nó gây đau đầu cho hầu hết những người khác. Giá trị của bảng Anh, euro, nhân dân tệ, yên và nhiều đồng tiền khác đều lao dốc. Điều đó làm cho các nước này phải nhập khẩu hàng hóa thiết yếu như nhiên liệu và thực phẩm với giá đắt hơn. Đáp lại, các ngân hàng trung ương vốn đang chống chọi với lạm phát phải tăng lãi suất cao hơn và nhanh hơn để nâng cao giá trị đồng tiền của chính họ.

Sức mạnh của đồng USD cũng tạo ra hiệu ứng bất ổn cho Phố Wall, vì nhiều công ty lớn của Mỹ kinh doanh trên khắp thế giới. Theo một ước tính của Morgan Stanley, mỗi lần Chỉ số dollar tăng 1% có tác động tiêu cực 0,5% đến lợi nhuận của các cổ phiếu trong chỉ số S&P 500.

  1. Động lực kinh tế của Mỹ trì trệ

Động lực số một của nền kinh tế lớn nhất thế giới là mua sắm. Và những người mua sắm ở Mỹ đang mệt mỏi. Sau hơn một năm giá cả tăng cao đối với gần như mọi mặt hàng, và lương không theo kịp, người tiêu dùng đang thu hẹp chi tiêu.

Nhà kinh tế trưởng Gregory Daco của EY Parthenon cho biết: “Khó khăn do lạm phát gây ra có nghĩa là người tiêu dùng phải dùng khoản tiết kiệm của họ”. Tỷ lệ tiết kiệm cá nhân trong tháng 8 không thay đổi, chỉ ở mức 3,5%,, gần mức thấp nhất kể từ năm 2008 và thấp hơn nhiều so với mức trước Covid là khoảng 9%.

Một lần nữa, lý do liên quan nhiều đến Fed. Lãi suất đã tăng với tốc độ lịch sử, đẩy lãi suất thế chấp lên mức cao nhất trong hơn 1 thập kỷ và khiến các doanh nghiệp khó phát triển hơn. Việc Fed tăng lãi suất có mục tiêu cuối cùng là hạ chi phí. Nhưng hiện tại, người tiêu dùng đang phải hứng chịu tác động kết hợp của lãi suất vay cao và giá cả cao, đặc biệt là đối với các nhu cầu thiết yếu như thực phẩm và nhà ở.

Người Mỹ mở hầu bao của mình trong thời gian phong tỏa năm 2020 – hỗ trợ nền kinh tế thoát khỏi cuộc suy thoái ngắn nhưng sâu. Kể từ đó, viện trợ của chính phủ cạn dần và lạm phát bắt rễ vào nền kinh tế, đẩy giá cả lên với tốc độ nhanh nhất trong 40 năm và làm mất khả năng chi tiêu của người tiêu dùng.

  1. Doanh nghiệp Mỹ thắt lưng buộc bụng

Hoạt động kinh doanh bùng nổ trên nhiều ngành trong phần lớn thời đại dịch, ngay cả khi lạm phát cao ăn vào lợi nhuận. Một lần nữa, đó là nhờ vào người tiêu dùng Mỹ, vì các doanh nghiệp có thể chuyển phần lớn mức tăng chi phí của mình cho người tiêu dùng để cải thiện tỷ suất lợi nhuận.

Nhưng điều đó có thể không kéo dài. Vào giữa tháng 9, một công ty đóng vai trò như một chỉ báo kinh tế gây một cú sốc cho nhà đầu tư. FedEx – hoạt động tại hơn 200 quốc gia – bất ngờ sửa dự báo kết quả kinh doanh của mình, cảnh báo rằng nhu cầu đang yếu đi và lợi nhuận do đó có thể giảm hơn 40%. Trong một cuộc phỏng vấn, CEO của công ty cho biết ông tin rằng đây là dấu hiệu sắp có một cuộc suy thoái toàn cầu.

Không chỉ FedEx. Apple cũng đang hủy kế hoạch tăng sản lượng iPhone 14 sau khi nhu cầu thấp hơn kỳ vọng, Bloomberg đưa tin. Và ngay trước kỳ nghỉ lễ, khi các doanh nghiệp thường tăng cường tuyển dụng, thái độ của họ thận trọng hơn.

“Chúng tôi không thấy mức tăng bình thường trong tháng 9 ở các công ty đăng tin tuyển dụng tạm thời”, theo Julia Pollak – nhà kinh tế trưởng tại ZipRecruiter. “Các công ty đang trì hoãn và chờ xem điều kiện sẽ ra sao”.

  1. Thị trường gấu

Phố Wall biến động mạnh trong năm nay và cổ phiếu đang trên đà có năm tệ nhất kể từ 2008.

Nhưng năm ngoái là một câu chuyện rất khác. Thị trường cổ phiếu phát triển mạnh vào năm 2021, với chỉ số S&P 500 tăng 27%, nhờ lượng tiền mặt khổng lồ do Fed bơm vào. Cơ quan này đưa ra chính sách siêu nới lỏng tiền tệ từ mùa xuân năm 2020 để giữ cho thị trường tài chính không bị sụp đổ.

Bữa tiệc kéo dài cho đến đầu năm 2022. Nhưng khi lạm phát liên tục tăng cao, Fed bắt đầu tăng lãi suất và gỡ bỏ cơ chế mua trái phiếu đã hỗ trợ thị trường trước đó. Điều đó làm cho chỉ số S&P 500 giảm hơn 20% trong năm nay – một điều kiện được gọi là “thị trường gấu”.

Ngay cả thị trường trái phiếu – thường là nơi trú ẩn an toàn cho nhà đầu tư khi cổ phiếu giảm giá – cũng đang lao dốc. Lạm phát – cùng với việc Fed tăng lãi suất mạnh – đẩy giá trái phiếu xuống. Lợi suất (tỷ lệ nghịch với giá) của trái phiếu chính phủ Mỹ kỳ hạn 10 năm có thời điểm vượt 4%, chạm mức cao nhất trong 14 năm. Lợi suất trái phiếu châu Âu cũng đang tăng đột biến khi các ngân hàng trung ương tăng lãi suất theo sự dẫn dắt của Fed để củng cố đồng tiền của mình.

Hiện có rất ít nơi an toàn để nhà đầu tư đặt tiền của mình. Điều đó ít có khả năng thay đổi cho đến khi lạm phát toàn cầu được kiểm soát và các ngân hàng trung ương nới lỏng chính sách tiền tệ.

  1. Chiến tranh, giá cả tăng vọt và chính sách xung đột

Sự kết hợp khủng hoảng kinh tế, tài chính và chính sách rõ ràng nhất ở Anh. Giống như phần còn lại của thế giới, nước này phải vật lộn với giá cả tăng vọt mà nguyên nhân chủ yếu là do cú sốc liên quan đến Covid-19, tiếp theo là gián đoạn thương mại do Nga xâm lược Ukraine.

Làm cho tình hình trở nên tồi tệ hơn, chính phủ mới của Thủ tướng Liz Truss gần đây công bố một kế hoạch cắt giảm thuế sâu rộng mà không có nguồn vốn ngân sách tài trợ, có nghĩa là chính phủ phải gánh thêm nợ.

Quyết định đó đã gây ra sự hoảng loạn trên thị trường tài chính và khiến chính phủ xung đột chính sách với Ngân hàng Trung ương Anh. Các nhà đầu tư trên khắp thế giới bán tháo hàng loạt trái phiếu của Anh, đẩy đồng bảng xuống mức thấp nhất so với đồng USD trong lịch sử.

Ngân hàng Anh tiến hành can thiệp khẩn cấp để mua trái phiếu vào thứ Tư và khôi phục trật tự trên thị trường tài chính, chấp nhận tạm thời đảo ngược chính sách thắt chặt tiền tệ để trấn an thị trường. Nhưng người Anh – vốn đang trong cuộc khủng hoảng chi phí sinh hoạt – có thể sắp đối mặt với chi phí vay cao hơn, làm gia tăng các khoản thanh toán thế chấp nhà hàng tháng mà họ phải trả.