Tăng trưởng bằng mọi giá
Vài năm sau khi bỏ học Trường Kinh doanh Harvard để thành lập công ty sau này sẽ trở thành Coupang, công ty thương mại điện tử lớn nhất Hàn Quốc, Bom Suk Kim đang tiến đến một bước ngoặt. Anh có trong tay một trang thương mại điện tử đang phát triển nhanh chóng và đang cân nhắc niêm yết công khai.
Kim có tham vọng lớn: chuyển hướng công ty sang một mô hình giống như Amazon, mà anh có thể thúc đẩy hơn nữa bằng cách xây dựng một mạng lưới giao hàng độc quyền. Vấn đề là Coupang sẽ cần rất nhiều tiền – có thể lên tới hàng tỷ USD. Nếu công ty niêm yết, các nhà đầu tư trên thị trường đại chúng có thể không thích mô hình cần lượng đầu tư nhiều như vậy.
Đó là bối cảnh hoàn hảo cho Tập đoàn SoftBank của Masayoshi Son. Nhóm đầu tư của ông ở Seoul đã tiến hành phân tích Coupang và các đối thủ. SoftBank nhận thấy rằng trong khi những đối thủ có dòng tiền tốt hơn, Coupang có trải nghiệm người dùng tốt, theo một người từng tham gia vào thương vụ. Vào tháng 6/2015, SoftBank đã đầu tư 1 tỷ USD vào công ty, phá vỡ kỷ lục tài trợ cho startup của Hàn Quốc vào thời điểm đó.
Được hỗ trợ bởi một lượng tiền mặt chưa từng có, Coupang bắt đầu xây dựng các trung tâm logistics trên khắp đất nước. Năm đó, doanh thu của Coupang tăng gấp 3 lần so với năm trước ngay cả khi lợi nhuận gộp giảm, theo báo cáo tài chính của công ty.
Nhưng điều đó không ngăn được Son. Sau khi thành lập Quỹ Softbank Vision gần 100 tỷ USD vào năm 2017, Son đã bơm thêm 2 tỷ USD vào Coupang vào cuối năm 2018. Đợt rót tiền thứ hai cho phép Coupang tung ra thêm 2 dịch vụ: giao hàng tạp hóa và giao đồ ăn. Khi nhu cầu tăng cao đối với các mảng kinh doanh thứ cấp đó trong đại dịch COVID-19, Coupang đã kéo tất cả ngành vào một cuộc cạnh tranh quyết liệt.
Việc đặt cược vào Coupang dường như đã thành công, ít nhất là đối với SoftBank. Mặc dù ghi nhận khoản lỗ khổng lồ 475 triệu USD vào năm 2020, đợt phát hành lần đầu ra công chúng trên Sàn giao dịch chứng khoán New York của công ty giao hàng vào tháng 3 đã mang lại cho họ mức vốn hóa thị trường ban đầu hơn 100 tỷ USD – gấp hơn 10 lần giá đầu tư năm 2018 của Quỹ Vision. Điều đó đã mang lại cho quỹ khoản lợi nhuận khổng lồ trên giấy tờ, giúp SoftBank gần đây báo cáo lợi nhuận ròng hàng năm lớn nhất từ trước đến nay là 46 tỷ USD.
Với danh sách dài các vụ đặt cược mạo hiểm của mình ở châu Á, Son đã thách thức các nhà phê bình cho rằng những ván bài vào các startup đốt tiền của ông sẽ không được các nhà đầu tư trên thị trường đại chúng chấp nhận. Trước mắt, một loạt các đợt chào bán công khai lần đầu có khả năng sinh lợi dự kiến sẽ triển khai vào năm 2021. Khó có thể tranh luận được rằng khoản đầu tư nổi tiếng nhất của ông vào Alibaba Group Holding – khoản đầu tư 20 triệu USD ban đầu sau đó đã tăng lên thành hơn 100 tỷ USD – chỉ là hiện tượng đơn lẻ. Trên thực tế, đợt IPO của Coupang là đợt IPO lớn nhất của một công ty nước ngoài tại Mỹ kể từ Alibaba vào năm 2014.
Trong một cuộc phỏng vấn gần đây với Nikkei, Son cho biết ông đã hoàn toàn “thu hẹp” sự tập trung của mình vào việc thực hiện hàng trăm lần đặt cược mới vào các kỳ lân – những startup có định giá hơn 1 tỷ USD. Cam kết tăng gấp đôi Quỹ Vision gần đây của ông sẽ là bài kiểm tra xem các nhà đầu tư đã bị thuyết phục về triển vọng lạc quan của ông đối với startup công nghệ hay chưa.
Cùng với những thành công này là những thất bại đáng chú ý như Greensill Capital, công ty dịch vụ tài chính đã sụp đổ vào tháng 3, và WeWork, startup không gian làm việc hỗn hợp từng IPO thất bại năm 2019. Những vụ việc này đã đặt ra câu hỏi về chiến lược tăng trưởng bằng mọi giá của SoftBank. Trong khi đó, đại dịch đã tạo ra sự xáo trộn trên thị trường và triển vọng đối với cổ phiếu công nghệ vẫn rất khó đoán. Niềm tin của nhà đầu tư sụt giảm trong những ngày đầu của đại dịch COVID-19 năm ngoái đã khiến SoftBank bán hơn 50 tỷ USD tài sản.
Tuy nhiên, câu hỏi lớn hơn là liệu chiến lược tăng trưởng quyết liệt do SoftBank thúc đẩy cuối cùng có thể dẫn đến lợi nhuận hay không. Các khoản đầu tư của Coupang đã giúp tăng thị phần của họ trên thị trường thương mại điện tử của Hàn Quốc, nhưng cạnh tranh vẫn gay gắt. Các startup và tập đoàn lớn đang thâm nhập vào thị trường thương mại điện tử Hàn Quốc, bao gồm cả Amazon, đã hợp tác với một nhà điều hành thương mại điện tử địa phương. Coupang đã tuyên bố sẽ tăng cường khả năng logistics của mình thêm 50% trong năm tới.
Mặc dù có số vốn khổng lồ, Son cũng thừa nhận rằng ông đã bỏ lỡ một số thương vụ tốt nhất trong ngành công nghiệp startup. Các nhà đầu tư đối thủ đã giành được các thỏa thuận đó cũng thu được lợi nhuận lớn trong đợt tăng giá cổ phiếu công nghệ của kỷ nguyên đại dịch và đang ngày càng tái đầu tư số tiền đó để hỗ trợ các đối thủ cạnh tranh của SoftBank. Điều đó khiến SoftBank khó có thể mua được đối thủ cạnh tranh và trở thành người chi phối thị trường nếu có làn sóng hợp nhất.
Những yếu tố đó đang phủ bóng lên tham vọng của Son trong việc tạo ra một đội quân doanh nhân sẽ hợp lực để dẫn đầu cái mà ông gọi là “cuộc cách mạng thông tin”.
“Có rất nhiều thất bại trong đầu tư, chẳng hạn như WeWork, Greensill và Katerra”, Son nói. “Nhưng điều tôi hối tiếc hơn cả là những cơ hội đầu tư bị bỏ lỡ”.
Tầm nhìn xa hay gần?
Ra mắt cách đây 4 năm, Quỹ Vision, do Son tạo ra vào năm 2017 để thúc đẩy sự chuyển dịch từ viễn thông sang đầu tư công nghệ, hiện có hai quỹ và hơn 130 tỷ USD tổng tài sản, bao gồm cả vốn đã cam kết nhưng chưa được đầu tư. Từ các văn phòng của công ty trên khắp London, Thung lũng Silicon, Mumbai và các địa điểm khác, các thành viên trong 26 nhóm đầu tư của công ty săn lùng các startup trên khắp thế giới. Các cuộc đàm phán về các khoản đầu tư tiềm năng cuối cùng dẫn đến một cuộc gặp với Son, hiện chủ yếu được tổ chức qua Zoom. Có thể mất chưa đầy một giờ để ông quyết định đầu tư tiền tỷ.
“Chỉ có 5% công ty có lãi khi chúng tôi đầu tư”, Son nói với Nikkei. “95% các công ty đang thua lỗ và mức lỗ tiếp tục tăng lên. Chúng tôi đầu tư vào những công ty này với mức định giá rất lớn. Bạn cần có can đảm.”
“Thông thường, rất khó để đưa ra quyết định đầu tư dựa trên cái gọi là cách suy nghĩ của tổ chức tài chính truyền thống”, ông nói. “Một trong những lý do chúng tôi có thể làm được điều này là chúng tôi hiểu được nền tảng của công nghệ”.
Son tỏ ra thoải mái với rủi ro của cả thành công và thất bại. Ông chỉ ra rằng Alibaba đã thua lỗ khi đầu tư lần đầu. “Chúng tôi sử dụng trí tưởng tượng của mình. Nếu [công ty] sử dụng trí thông minh nhân tạo theo cách này và có được khách hàng, nó sẽ thành công. Nếu phạm một sai lầm, nó sẽ rơi xuống vực sâu”.
Trên thực tế, những hạt giống của những vụ cá cược hàng tỷ USD đó đã được gieo trồng từ nhiều năm trước khi có Quỹ Vision. Ngay trước khi đặt cược vào Coupang vào năm 2015, SoftBank đã dẫn đầu khoản đầu tư 100 triệu USD vào Tokopedia, một trang web mua sắm trực tuyến ở Indonesia. Họ cũng đặt cược vào ngành công nghiệp gọi xe non trẻ của châu Á, rót 250 triệu USD vào Grab Taxi ở Đông Nam Á và dẫn đầu vòng tài trợ 600 triệu USD cho Kuaidi Dache ở Trung Quốc.
Những công ty này sau đó đã được tăng thêm hàng tỷ USD từ Quỹ Vision. Trước khi quỹ này đi vào hoạt động vào năm 2017, thị trường bị thống trị bởi 2 kiểu nhà đầu tư. Các quỹ đầu tư tư nhân lớn sẽ mua các công ty có dòng tiền ổn định, cải thiện tỷ suất lợi nhuận và bán chúng, phân phối lợi nhuận giữa chính họ và các nhà đầu tư quỹ. Các nhà đầu tư vào các công ty startup, được gọi là đầu tư mạo hiểm, thường cung cấp một lượng vốn nhỏ cho nhiều công ty với hy vọng rằng một số ít sẽ thành công rực rỡ.
Quỹ Vision đầu tiên, huy động được hơn 98 tỷ USD, là sự kết hợp độc đáo của cả hai. Nó đầu tư với quy mô của các quỹ đầu tư tư nhân lớn nhất, nhưng nhắm mục tiêu vào các công ty công nghệ đang phát triển nhanh với các mô hình kinh doanh chưa được chứng minh
“Bạn đang câu giờ để công ty chứng minh mô hình kinh doanh phù hợp”, Oliver Matthew, một nhà phân tích tại CLSA, cho biết. “Một số khoản đầu tư này sẽ thất bại, và họ chấp nhận điều đó. Nhưng mức độ đột phá tổng thể mà bạn có thể mang lại thông qua các loại công ty này sẽ bù đắp cho một số ít các khoản đầu tư thất bại”.
Lấy trường hợp của Tokopedia. Được dẫn dắt bởi William Tanuwijaya, một cựu nhân viên bán thời gian tại một quán cà phê Internet, nó hầu như không tạo ra doanh thu trong vài năm đầu tiên. Cơ sở hạ tầng yếu kém của Indonesia có nghĩa là điều kiện để tạo lợi nhuận bằng cách vận chuyển hàng hóa trên quần đảo là rất bất lợi.
Tuy nhiên, quy mô đã tạo ra sự khác biệt. Công ty bắt đầu mở rộng nhanh chóng với khoản đầu tư năm 2014 của SoftBank, nhưng khoản tiền Quỹ Vision bơm vào đã đưa nó lên một tầm cao khác. Tokopedia thấy rằng họ đang thu hút từ 60 đến 80 triệu người tiêu dùng, nhưng nhiều người không tích cực mua hàng. Thay vì chờ đợi mức thu nhập tăng lên, họ đã quyết định hạ mức giao dịch trực tuyến thấp nhất có thể. Theo đuổi mô hình kinh doanh “cơ sở hạ tầng như một dịch vụ”, họ bắt đầu xây dựng một loạt các dịch vụ giao dịch: hóa đơn điện nước, vé tàu, cửa hàng tạp hóa và cho vay, …
“Tầm nhìn cốt lõi đã rõ ràng: Làm thế nào để chúng tôi mang nhiều ví tiền của người tiêu dùng Indonesia lên mạng hơn?”, Lydia Jett, một đối tác của Quỹ Vision, người ngồi trong hội đồng quản trị của Tokopedia, Coupang và những công ty khác cho biết.
Rủi ro của SoftBank
Việc mở rộng toàn diện như vậy đòi hỏi phải đốt tiền mặt trong nhiều năm và quá rủi ro đối với hầu hết các nhà đầu tư. Nhưng Son đã thuyết phục các quỹ tài sản nhà nước của Ả Rập Xê-út và Abu Dhabi tham gia Quỹ Vision bằng cách cung cấp cho họ mức lãi suất hàng năm 7% cho một nửa số tiền họ bỏ vào, cũng như cam kết 33 tỷ USD vốn tự có của SoftBank. Điều đó khiến SoftBank gặp rủi ro lớn ngay từ đầu – họ phải trả hàng tỷ USD trước khi có thể bắt đầu rút tiền – nhưng đã tạo cho SoftBank cơ hội kiếm lợi nhuận kếch xù nếu các khoản cược của họ thành công.
Mô hình tăng trưởng bằng mọi giá bị nghi ngờ vào năm 2019, sau khi cổ phiếu của Uber Technologies, một trong những khoản đặt cược lớn nhất của Quỹ Vision, giảm sau khi niêm yết công khai ở Mỹ. Vài tháng sau, WeWork từ bỏ vụ IPO của mình sau khi được định giá 47 tỷ USD. Những lo lắng về việc liệu các công ty khác trong danh mục đầu tư của SoftBank có thể tồn tại sau đại dịch COVID-19 đã gây ra tình trạng bán tháo cổ phiếu của chính SoftBank, khiến Son tuyên bố bán một lượng lớn tài sản và mua lại cổ phiếu.
“Chúng tôi đã đánh giá quá cao, hoặc quá tự tin, về người sáng lập, Adam [Neumann]”, Son nhớ lại về lần đặt cược của mình vào WeWork. Cổ phiếu của Uber “được bán với giá cao hơn giá mua của chúng tôi, nhưng giá cổ phiếu lại sụt giảm sau khi niêm yết”.
SoftBank cũng định giá toàn bộ danh mục đầu tư của mình “rất thận trọng”, Son nói thêm, “bởi vì [các công ty] có thể rơi vào khủng hoảng vì coronavirus”.
Khoản đặt cược 1,5 tỷ USD của SoftBank vào Greensill Capital, công ty đưa ra “phương pháp tiếp cận dựa trên công nghệ” đối với lĩnh vực tài chính chuỗi cung ứng, cũng thất bại. Công nghệ của họ được cho là có thể cho phép cung cấp tài chính ngắn hạn cho các công ty theo truyền thống được coi là rủi ro, nhưng trên thực tế, một phần lớn các khoản vay của Greensill đã được chuyển đến các công ty khác thuộc danh mục đầu tư của Quỹ Vision. Greensill sụp đổ sau khi công ty bảo hiểm chính của họ không gia hạn hợp đồng bảo hiểm.
“Tôi nghĩ mô hình kinh doanh của công ty thật tuyệt vời. Tôi vẫn nghĩ như vậy … nhưng đã có các khoản vay quá lớn cho một số công ty” dẫn đến sự suy sụp niềm tin, Son nói. “Một số công ty mà chúng tôi đầu tư vào là một phần trong các hoạt động cho vay của Greensill. Tôi không rõ các tương tác trực tiếp, nhưng chúng tôi phải chấp nhận thực tế đó”.
Những IPO thành công
Giờ đây, một loạt các đợt IPO dự kiến diễn ra trong những tháng tới có thể sẽ là minh chứng cho chiến lược của Son.
Vào tháng 4, Grab Holdings đã công bố kế hoạch niêm yết thông qua việc sáp nhập với một SPAC (công ty mua lại mục đích đặc biệt), trong một thỏa thuận định giá Grab ở mức gần 40 tỷ USD – thương vụ SPAC lớn nhất từ trước đến nay. Tokopedia gần đây đã thông báo về việc sáp nhập với Gojek, đối thủ cạnh tranh chính của Grab, và một giám đốc điều hành cho biết công ty kết hợp này có kế hoạch niêm yết cổ phiếu vào cuối năm nay.
Nikkei đã đưa tin rằng Didi Chuxing, kết quả của sự hợp nhất giữa Kuaidi Dache và Didi Dache, đã bắt đầu làm việc với Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch Mỹ để tiến tới IPO trên Sở Giao dịch Chứng khoán New York. Đợt IPO dự kiến sẽ định giá công ty vào khoảng 70 tỷ đến 100 tỷ USD. SoftBank đã đầu tư gần 11 tỷ USD vào Didi Chuxing, thúc đẩy sự mở rộng của công ty này trên khắp Trung Quốc cũng như vào các lĩnh vực mới như lái xe tự động và giao hàng tạp hóa.
WeWork cũng đã công bố kế hoạch niêm yết thông qua SPAC, nâng cao cơ hội để SoftBank thu hồi một số khoản lỗ. Zuoyebang và Full Truck Alliance ở Trung Quốc và Delhivery và Policybazaar ở Ấn Độ nằm trong số các đợt IPO khác trong quá trình triển khai, theo những người có hiểu biết về vấn đề này.
Những khoản đầu tư đó có thể là nguồn thu lớn đối với Quỹ Vision. Chỉ riêng cổ phần của họ trong Coupang đã trị giá 27 tỷ USD vào tháng 3. Kết hợp với một loạt các đợt IPO nhỏ hơn và sự gia tăng giá trị của các công ty niêm yết trong danh mục đầu tư, tổng thu nhập đầu tư của Vision Fund 1 và 2 trong năm tài chính kết thúc vào tháng 3 là 58 tỷ USD.
Son coi lợi nhuận kỷ lục là sự kết hợp của các sự kiện may mắn xảy ra cùng lúc. Trọng tâm của ông là mở rộng danh mục đầu tư của tập đoàn gồm “224 công ty… lên 300, 400 và 500”. SoftBank muốn tạo ra cái mà Son gọi là một bầy đàn: “một nhóm các kỹ sư và doanh nhân tiên tiến giải quyết mọi vấn đề trên thế giới”.
Mục tiêu đó sẽ được kiểm tra dưới cái nhìn của thị trường đại chúng. Trong thế giới của SoftBank, các chỉ số thông thường như lợi nhuận không quan trọng. Thay vào đó, có “chỉ số kinh tế đơn vị” – các chỉ số về khả năng sinh lời trong tương lai một khi việc đốt tiền mặt dừng lại. Điều đó cuối cùng sẽ tạo ra lợi nhuận hàng quý cung cấp cho các nhà đầu tư trên thị trường đại chúng.
“Bạn đang chuyển đổi từ tư duy đầu tư mạo hiểm và cổ phần tư nhân sang tư duy cổ phần đại chúng”, Claudia Zeisberger, giáo sư về cổ phần tư nhân và đầu tư mạo hiểm tại trường kinh doanh INSEAD, cho biết. “Một khi toàn bộ danh mục đầu tư được niêm yết công khai, các thước đo nội bộ không còn phù hợp nữa”.
Ví dụ, Coupang đã báo cáo khoản lỗ ròng 295 triệu USD trong quý đầu tiên, tăng 180% so với năm trước, vượt xa mức tăng 74% về doanh thu. Nhưng dựa trên các chỉ số chính nội bộ, “chi tiêu theo nhóm khách hàng”, người dùng tham gia vào năm 2016 trung bình đã chi tiêu cho Coupang nhiều gấp 3,59 lần vào năm 2020. Việc người dùng hiện tại chi tiêu nhiều hơn mỗi năm là tín hiệu cho thấy Coupang sẽ sinh lời một khi nó ngừng xây dựng các nhà máy mới và thuê nhân viên giao hàng.
“Chúng tôi rất vui mừng khi thấy rằng mức độ tương tác của khách hàng tiếp tục tăng và chi tiêu của họ tiếp tục tăng”, Jett của Vision Fund cho biết. “Khi chúng tôi dừng, nếu chúng tôi dừng tiếp tục đầu tư vào nhu cầu mà chúng tôi dự kiến sẽ thấy, khả năng sử dụng [năng lực logistics] của chúng tôi sẽ tăng, và khi đó lợi nhuận của chúng tôi sẽ tốt hơn”.
Xây dựng một danh sách các đợt IPO thành công sẽ là chìa khóa quan trọng, không chỉ cho lợi nhuận, mà còn cho danh tiếng của SoftBank. Vidit Aatrey, đồng sáng lập kiêm CEO của Meesho, một trang web thương mại xã hội Ấn Độ đã chấp nhận tài trợ từ SoftBank gần đây cho biết: “SoftBank là một phần của một số công ty thương mại điện tử lớn nhất trên toàn cầu”. “Hiển nhiên là chúng tôi đã nói đồng ý với họ”.
Thị trường ngày càng chật chội
SoftBank không còn là lực lượng thống trị trong việc hỗ trợ các công ty startup. Quỹ Vision 2 hiện được SoftBank tài trợ hoàn toàn và có quy mô bằng 1/3 quy mô của quỹ đầu tiên. Điều đó đã đưa họ trở lại cạnh tranh gay gắt hơn với một số lượng ngày càng tăng các nhà đầu tư vào các công ty công nghệ tư nhân. Các quỹ tương hỗ, và thậm chí cả các quỹ đầu cơ có truyền thống đầu tư vào các cổ phiếu được giao dịch công khai, đã lấn sân sang lĩnh vực này, tìm kiếm lợi tức trong môi trường lãi suất cực thấp.
Những người ủng hộ ban đầu cho các kỳ lân hàng đầu cũng đang tăng các khoản đánh cược của mình, trong đó một số vượt qua cả SoftBank. Nhà đầu tư của Mỹ Tiger Global Management đã tham gia vào các vòng gọi vốn trị giá hơn 20 tỷ USD chỉ trong năm nay, so với 17,8 tỷ USD của SoftBank, theo CB Insights.
Một nhà đầu tư startup có trụ sở tại Singapore cho biết chiến lược của Tiger giống với Quỹ Vision ở chỗ nó “thay đổi luật chơi bằng tiền mặt”. “Điều đó tốt cho những doanh nhân có kỷ luật, nhưng nhiều người đã chuyển đến những văn phòng sang trọng trước khi kiếm được lợi nhuận. Có những điểm cộng và điểm trừ”.
Razorpay, một công ty fintech của Ấn Độ, là một ví dụ mang tính biểu tượng. Trong vài tháng qua, công ty đã huy động vốn từ các nhà đầu tư bao gồm Tiger Global Management, GIC, Sequoia Capital, Ribbit Capital và Matrix Partners – một số tên tuổi thuộc hàng nổi tiếng nhất trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm. Định giá của nó đã tăng từ 1 tỷ USD vào tháng 10 lên 3 tỷ USD vào tháng 4.
Sự phổ biến của Razorpay ngày càng tăng do danh tiếng của nó ở Ấn Độ tương đương với Stripe, một công ty xử lý thanh toán trực tuyến của Mỹ gần đây được định giá 95 tỷ USD. SoftBank không phải là nhà đầu tư vào hai công ty này.
Ngay cả Meesho, công ty chấp nhận khoản đầu tư của SoftBank, đã từ chối đề nghị mua thêm vốn của Son, theo một người tham gia cuộc đàm phán.
Củng cố quyền lực
Cuộc hành trình từ những khoản lỗ lịch sử để đạt được lợi nhuận kỷ lục cũng cho thấy Son, người hiện sở hữu gần 30% cổ phần của SoftBank, không bị lay chuyển bởi những lời kêu gọi thay đổi. Yuko Kawamoto, giám đốc đối ngoại đã gia nhập một năm trước sau những lời kêu gọi tăng cường giám sát, nằm trong số 3 thành viên hội đồng quản trị từ chức vào tháng Sáu. Trước đó là một chuỗi các thành viên hội đồng quản trị ra đi, bao gồm cả nhà sáng lập Uniqlo Tadashi Yanai, người được biết đến với việc thách thức Son.
Các ứng cử viên thành viên hội đồng quản trị mới đều có mối quan hệ mật thiết với Son: Keiko Erikawa, một người bạn lâu năm; Kentaro Kawabe, người điều hành công ty con Z Holdings của SoftBank; và Kenneth Siegel, một luật sư đã tư vấn cho SoftBank trong các giao dịch mua bán và sáp nhập.
Trong một thông báo đăng trên trang web của SoftBank, Kawamoto giải thích rằng sự ra đi của bà là do bà được bổ nhiệm trong chính phủ Nhật Bản. Bà cũng cho biết SoftBank “cần hình thành một hình thức quản trị cho phép Masa thể hiện hết tài năng của mình, sau đó có thể được tích hợp vào giá trị của cổ đông”. Bà cũng nhấn mạnh rằng thách thức lớn nhất của SoftBank là “thiết kế ra một kế hoạch kế vị”.