VNReport»Kinh tế»Gia tăng nội lực cho ngành logistics Việt Nam

Gia tăng nội lực cho ngành logistics Việt Nam

17:28 - 20/10/2022

Logistics Việt Nam có nhiều tiềm năng phát triển và cũng đã đạt được nhiều thành tựu, nhưng trong thời gian qua vẫn còn nhiều hạn chế cần khắc phục.

Bước chuyển mình mạnh mẽ

Chia sẻ tại Diễn đàn “Logistics Việt Nam: Chuyển mình phát triển” vừa diễn ra, ông Phan Văn Chinh – Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho biết, thời gian qua, hoạt động logistics tại Việt Nam có sự tiến bộ vượt bậc và kim ngạch xuất nhập khẩu gia tăng nhanh chóng.

Cụ thể, trong 9 tháng đầu năm 2022, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 557,93 tỷ USD. Trong đó xuất khẩu đạt 282,35 tỷ USD, tăng 17,2%; nhập khẩu đạt 275,58 tỷ USD, tăng 12,8%. Đặc biệt, xuất siêu trong 9 tháng đầu năm đạt 6,77 tỷ USD, có được điều đó là sự đóng góp quan trọng của logistics.

Việt Nam có nhiều cơ hội phát triển dịch vụ logistics

Nếu so sánh với một số nước trong khu vực như Malaysia, Philippines… năng lực và khả năng của doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu rất mạnh mẽ. Theo bảng xếp hạng của Agility 2022, thị trường logistics Việt Nam được xếp hạng thứ 11 trong nhóm 50 thị trường logistics mới nổi toàn cầu nhờ sự chuyển mình mạnh mẽ của các doanh nghiệp cung cấp và sử dụng dịch vụ logistics.

Tỉ lệ tăng trưởng năm giai đoạn 2022-2030 của thị trường logistics Việt Nam được dự báo đạt mức 5,5%. Các nhà đầu tư nước ngoài cũng đánh giá, Việt Nam có nhiều cơ hội phát triển dịch vụ logistics khi có dân số trẻ, quy mô dân số khoảng 100 triệu người; các chính sách hỗ trợ của Chính phủ ổn định.

Bên cạnh đó, những hiệp định thương mại tự do (FTA) mới được Việt Nam ký kết với những đối tác thương mại lớn như Liên minh châu Âu (EVFTA) mang lại nhiều thuận lợi cho ngành dịch vụ logistics, là đòn bẩy tăng trưởng quan trọng sau đại dịch Covid-19. Những hiệp định này sẽ là cú hích cho hoạt động sản xuất và xuất nhập khẩu của Việt Nam. Khi hoạt động sản xuất và xuất nhập khẩu phát triển sẽ kéo theo sự phát triển của ngành logistics.

Còn nhiều điểm nghẽn cần tháo gỡ

Dù ghi nhận sự tăng trưởng tích cực, theo ông Phan Văn Chinh, nhìn về tương lai phát triển thì logistics vẫn còn đó những hạn chế nhất định, cần được định hướng cụ thể, toàn diện. Hoạt động logistics Việt Nam còn hạn chế và phụ thuộc vào một số ít doanh nghiệp nước ngoài. Đây cũng là nguyên nhân khiến cho ngành logistics Việt Nam dễ bị tổn thương và đứt gãy.

Thông tin từ Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam (VLA) cho thấy hiện thị trường logistics Việt Nam có sự tham gia của khoảng hơn 5.000 doanh nghiệp. Trong đó, 89% doanh nghiệp Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ; 10% là doanh nghiệp liên doanh và 1% doanh nghiệp 100% có vốn nước ngoài cung cấp dịch vụ logistics xuyên quốc gia. Tuy chỉ chiếm 1% nhưng doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đang cung cấp dịch vụ logistics xuyên quốc gia, với nhiều tên tuổi lớn nhất của ngành logistics toàn cầu.

Bên cạnh đó, chi phí dịch vụ của doanh nghiệp logistics của Việt Nam còn tương đối cao. Báo cáo công bố của Agility năm 2021 cho thấy, chi phí logistics của Việt Nam chiếm hơn 20% GDP. Trong khi mức chi phí logistics trung bình trên thế giới chỉ khoảng 11% GDP.

Theo bà Lê Thị Ngọc Diệp, Giám đốc Thương Mại, Công ty SLP Việt Nam, một điểm nghẽn khác hiện nay là về cơ sở hạ tầng từ sân bay, cảng biển, kho bãi… chưa được quy chuẩn, phân tán. Trong đó, hệ thống kho bãi quy hoạch có sự chênh lệch giữa miền Bắc và miền Nam dẫn đến hạn chế trong việc vận chuyển hàng hóa trên cả nước.

Còn ông Lê Trọng Hiếu, Giám đốc cấp cao CBRE Việt Nam cho rằng, muốn đón “sóng” logistics cần lưu ý đến phát triển và sử dụng kho bãi hiệu quả, tăng tốc độ xử lý đơn hàng, giảm chi phí.  Ông Hiếu đánh giá, việc xâm nhập của thương mại điện tử tại Việt Nam vẫn còn khá thấp, trong 3 năm tới, tăng trưởng của thương mại điện tử của Việt Nam dự báo sẽ tăng lên từ 15-20%, thậm chí là 50%. Vì vậy, vị trí các kho hàng cũng là yếu tố giúp tối ưu hóa việc chuyển hàng đến với khách hàng.

Để tận dụng tốt các cơ hội trong sự phát triển của thương mại thế giới và lợi thế vị trí địa lý quan trọng trong khu vực, theo TS Đoàn Duy Khương, chúng ta cần có chiến lược định vị Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu với 3 nội dung chính:

Thứ nhất, phát triển hội nhập kinh tế trong ASEAN và coi đó là trọng tâm để đàm phán quốc tế và xây dựng chiến lược chuỗi cung ứng quốc gia đảm bảo vị trí quan trọng của Việt Nam trong khu vực. Trong đó đặc biệt chú ý đến dự án xây dựng kênh đào Kra vì nó chắc chắn sẽ thay đổi cục diện của ngành hàng hải ASEAN và vận tải quốc tế nhất là các tàu thương mại trên tuyến Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Kênh đào mới có lợi cho Việt Nam về mọi mặt (nhất là các tỉnh, thành phía Nam), xét trên các yếu tố kinh tế. Những thế mạnh tự nhiên về đặc điểm địa lý của dự án là lý do để các nhà chiến lược kinh tế nghiên cứu nghiêm túc và đề xuất một kế hoạch kinh doanh hàng hải nhằm định vị lại chuỗi cung ứng của Việt Nam trong Định hướng Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 – 2030 và tầm nhìn đến năm 2050.

Thứ hai, tích cực chủ động tham gia vào các chương trình hội nhập của Việt Nam với các thị trường lớn trong trong khu vực như RCEP, ASEAN-Ấn Độ, IPEF, CP TPP… để có thể nắm bắt và kết nối xu hướng phát triển thị trường, công nghệ và chuyển dịch của chuỗi cung ứng sản phẩm và dịch vụ.

Thứ ba, cần đặt trọng tâm vị trí biển Đông trong chiến lược phát triển đồng bộ hạ tầng kỹ thuật nói chung và giao thông vận tải của đất nước nói riêng, bao gồm:

Nghiên cứu, hình thành phát triển các kết nối cảng biển, hệ thống dịch vụ hỗ trợ sau cảng biển với đường không, đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa như: Thực hiện các giải pháp thu hút, phân luồng hàng hóa để khai thác có hiệu quả cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng (Lạch Huyện), cảng Cái Mép – Thị Vải, cảng Vân Phong (Khánh Hòa), cảng Quy Nhơn (Bình Định), cảng Cái Lân (Quảng Ninh), cảng Sài Gòn, cảng Cửa Lò (Nghệ An), cảng Dung Quất (Quảng Ngãi)…

Cải thiện môi trường trường đầu tư kinh doanh để tăng cường phát triển doanh nghiệp, ứng dụng công nghệ số và thu hút đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng logistics để đảm bảo cả năm nguồn vốn: Tài chính, con người, xã hội, môi trường và sản phẩm vật chất tham gia hợp lý trong các dự án quốc gia liên quan trong bối cảnh nguồn lực tài chính hạn hẹp của Chính phủ. Trong đó, đặc biệt chú ý đến sự tham gia của nguồn lực (vốn) xã hội vì nguồn vốn này chắc chắn sẽ đem lại niềm tin, sự kết nối xã hội bởi lẽ mục đích tất cả các dự án là sự hiệu quả và cuối cùng là đem lại sự hài lòng của người dân trong xã hội và sự phát triển bền vững quốc gia.