VNReport»Kinh tế»Doanh nghiệp»Lý do nhiều doanh nghiệp châu Âu chọn Việt Nam thay vì Trung Quốc

Lý do nhiều doanh nghiệp châu Âu chọn Việt Nam thay vì Trung Quốc

12:11 - 10/06/2022

Hãng truyền thông DW của Đức nhận định rằng chi phí lao động cao hơn, căng thẳng địa chính trị và chính sách “zero Covid” là những lý do khiến ngày càng nhiều doanh nghiệp châu Âu tìm cách rời khỏi Trung Quốc, và Việt Nam là một trong những địa điểm thay thế hàng đầu.

Việt Nam là một trong số ít nước châu Á không bị thu hẹp quy mô kinh tế trong đại dịch Covid vào năm 2020 và 2021. Năm nay, GDP của Việt Nam dự kiến ​​sẽ tăng khoảng 5,5%, theo Ngân hàng Thế giới. Thành tích kinh tế của Việt Nam trong và sau đại dịch đã thu hút được sự chú ý của một số công ty lớn của châu Âu.

Nhà cung cấp linh kiện ô tô Brose của Đức – có 11 nhà máy ở Trung Quốc – hiện đang quyết định giữa Thái Lan và Việt Nam về địa điểm sản xuất mới. Vào tháng 12, Lego của Đan Mạch thông báo sẽ xây dựng nhà máy trị giá 1 tỷ USD ở tỉnh Bình Dương, một trong những dự án đầu tư lớn nhất của châu Âu tại Việt Nam cho đến nay.

Thành tích kinh tế của Việt Nam trong và sau đại dịch thu hút sự chú ý của một số công ty lớn của châu Âu.

Thành tích kinh tế của Việt Nam trong và sau đại dịch thu hút sự chú ý của một số công ty lớn của châu Âu.

Daniel Muller, Giám đốc Hiệp hội Doanh nghiệp Châu Á – Thái Bình Dương của Đức cho biết: “Hiện tại, có vẻ như các công ty quy mô vừa đang ngày càng nỗ lực gia nhập thị trường Việt Nam hoặc đang đưa hoạt động của họ ra khỏi Trung Quốc trên phạm vi rộng hơn”.

Tại sao các doanh nghiệp rời Trung Quốc?

Các công ty châu Âu đang tìm kiếm giải pháp thay thế cho Trung Quốc vì một số lý do. Trong những năm gần đây, lương của lao động Trung Quốc tăng, khiến nước này trở nên kém hấp dẫn hơn đối với các nhà sản xuất giá rẻ. Mức lương trung bình hàng năm ở Trung Quốc tăng từ khoảng 5.400 USD vào năm 2010 lên 14.500 USD vào năm 2020, theo Moody’s Analytics.

Về mặt địa chính trị, mối quan hệ của Trung Quốc với các chính phủ châu Âu xấu đi trong năm 2021 khi Liên minh châu Âu (EU) áp đặt những biện pháp trừng phạt đối với Trung Quốc vì hành vi đối xử với người thiểu số Hồi giáo Duy Ngô Nhĩ ở khu vực Tân Cương. Bắc Kinh sau đó đã ban hành những lệnh trừng phạt của riêng mình đối với các quan chức EU và một hiệp ước đầu tư được ký kết trước đó bị đóng băng.

Năm 2022, chính sách “zero-COVID” của Bắc Kinh khiến chuỗi cung ứng toàn cầu rơi vào tình trạng hỗn loạn khi hoạt động sản xuất tê liệt trong các thành phố bị phong tỏa. Điều này cũng làm lung lay niềm tin của doanh nghiệp EU vào Trung Quốc như một địa điểm sản xuất đáng tin cậy. Thượng Hải chỉ mới mở cửa trở lại gần đây sau nhiều tháng phong tỏa chặt, trong khi các khu vực của thủ đô Bắc Kinh đã đóng cửa trong nhiều tháng.

Tất cả những điều này làm suy yếu nền kinh tế và có những cảnh báo rằng Trung Quốc có thể tăng trưởng thấp hơn nhiều so với mục tiêu GDP của họ. Trong 3 tháng đầu năm 2022, GDP của Trung Quốc tăng 4,8%, thấp hơn mục tiêu chính thức cả năm là 5,5%, theo Ngân hàng Thế giới.

“Ngay cả trước khi xảy ra đại dịch, chúng tôi đã thấy các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp trong phân khúc sản xuất sử dụng nhiều lao động, bắt đầu chuyển ra khỏi Trung Quốc đại lục đến các nước có chi phí thấp hơn khác trong khu vực, bao gồm cả Việt Nam”, Raphael Mok, người đứng đầu bộ phận Rủi ro Quốc gia châu Á tại Fitch Solutions, nói với DW.

Đồng thời, Việt Nam đã trở thành một điểm đến hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư, ông nói thêm. Mức lương thấp hơn ở Trung Quốc, và Việt Nam có tầng lớp trung lưu tăng nhanh. Chính phủ cũng đang đầu tư rất nhiều vào cơ sở hạ tầng.

EU và Việt Nam phê chuẩn một hiệp định thương mại tự do vào năm 2020, trong đó có Hiệp định Bảo hộ Đầu tư EU – Việt Nam (EVIPA). Thương mại song phương tăng lên 49 tỷ Euro vào năm 2021, tăng từ 20,8 tỷ Euro năm 2012, năm bắt đầu đàm phán về Hiệp định Thương mại Tự do EU – Việt Nam (EVFTA).

EU và Việt Nam phê chuẩn một hiệp định thương mại tự do vào năm 2020.

EU và Việt Nam phê chuẩn một hiệp định thương mại tự do vào năm 2020.

Một báo cáo của Germany Trade & Invest – một nền tảng nghiên cứu và tư vấn – chỉ ra rằng các hiệp định này cũng giúp doanh nghiệp châu Âu tiếp cận dễ dàng hơn với hoạt động mua sắm công, bao gồm những dự án hợp tác công-tư, tại Việt Nam. Theo EVIPA, tỷ lệ sở hữu tối đa của nhà đầu tư nước ngoài trong các ngân hàng thương mại tăng từ 30% lên 49%.

Tại sao Trung Quốc vẫn quan trọng

Matthijs van den Broek thuộc Hiệp hội Doanh nghiệp Hà Lan Việt Nam (DBAV) cho biết: “Liệu Việt Nam có “thay thế” Trung Quốc như một lựa chọn sản xuất hay không vẫn còn phải xem xét”. “Nhưng với tư cách là một địa điểm đầu tư mở rộng hoặc bổ sung, ngoài Trung Quốc, hoặc như một phần của chiến lược Trung Quốc + 1, chắc chắn [Việt Nam] đang có được chỗ đứng”.

“Trung Quốc quá lớn và quá tiên tiến để không đóng góp bất kỳ phần nào trong chiến lược châu Á”, ông nói thêm. “Việt Nam vẫn chưa ngang bằng với Trung Quốc về trình độ học vấn, lao động có kỹ năng, cơ sở hạ tầng và logistics”.

Daniel Muller lưu ý rằng sự tách ra của Châu Âu khỏi Trung Quốc phụ thuộc phần lớn vào nơi bán hàng. Ví dụ, doanh nghiệp Đức phụ thuộc nhiều hơn vào thị trường Trung Quốc so với hầu hết các nước châu Âu khác. Xuất khẩu của Đức sang Trung Quốc trị giá 99 tỷ euro vào năm 2020, so với 19 tỷ euro của Pháp.

“Vẫn chưa rõ liệu các công ty Đức, đặc biệt là những tập đoàn lớn, có giảm đáng kể hoạt động của họ ở Trung Quốc hay không”, Muller nói. “Đây sẽ là điều kiện tiên quyết để các nước như Việt Nam có thể tin tưởng vào những khoản đầu tư mới quy mô lớn”.

Việc chuyển sản xuất cũng phụ thuộc vào loại ngành. Raphael Mok cho biết về dài hạn, các doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất có giá trị gia tăng cao hơn, chẳng hạn như kỹ thuật tiên tiến và thiết bị thông minh, vẫn sẽ coi Trung Quốc đại lục là một trung tâm sản xuất do chuỗi cung ứng của nước này. Tuy nhiên, những ngành sản xuất có tỷ suất lợi nhuận thấp hơn, đòi hỏi hệ sinh thái chi phí thấp và ít phức tạp hơn, “có thể sẽ tiếp tục chuyển dịch ra khỏi đất nước để giữ cho chi phí sản xuất ở mức thấp”, ông nói thêm.

Theo Muller, nếu căng thẳng địa chính trị gia tăng hơn nữa trong tương lai, “các công ty sẽ không thể tránh khỏi việc tìm kiếm giải pháp thay thế cho Trung Quốc. Việt Nam “sẽ đóng một vai trò quan trọng trong điều này”, ông nói.